Thắng Pháp Abhidhamma
Bài học ngày hôm nay chúng ta học tiếp về những tâm cơ năng.
TT Giác Đẳng: Trong bài học trước, TT Tuệ Siêu đã giảng một số những khái niệm cần chuẩn bị cho việc đi vào các tâm mang tánh cơ năng. Thí dụ, tuy tâm làm việc máy móc, nhưng những tâm này chịu ảnh hưởng nhân quả, có những thứ tâm tạo nghiệp, có những tâm là tâm quả của nghiệp, có những tâm phi nghiệp phi quả, đó là điều chúng ta cần lưu ý.
Học những tâm cơ năng này, chúng ta thấy được, mặc dù trên phương diện chiêu cảm của nghiệp, tức là tâm quả là ngũ quan; nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, có thể là quả thiện cũng có thể là quả bất thiện. Nhưng tánh cách nghiệp quả không dừng tại đây, nó phải tiếp theo là tâm quan sát, tâm tiếp thu (tâm tiếp nhận), cùng tương đương với tâm ngũ quan. Ví dụ, nhãn thức là quả bất thiện thì tiếp thu cũng là quả bất thiện, quan sát cũng là quả bất thiện. Tức là những tâm này sanh lên cũng là quả của nghiệp, nhưng nó phải đi một cách tương thích.
Tâm tiếp thu
Trước khi đào sâu vào lý do tại sao phải có sự tương thích như vậy, chúng ta nói về rõ về vai trò tâm tiếp nhận (Sampaṭicchanacitta). Tâm tiếp nhận ở đây mang thuần là một bộ phận ở trong nguồn máy tế nhị của tâm thức.
Chúng tôi dùng một ví dụ, ngày nay tại các nhà hàng lớn, họ có một khâu đặc biệt là giữa người đứng để chào hỏi khách đến và người chạy bàn để phục vụ, thì họ có một người gọi là người hướng dẫn khách đến bàn. Có những nhà hàng lớn mênh mông khách vào không biết ngồi chỗ nào, thì người phận sự lấy thực đơn, muỗm nĩa, khăn ăn rồi dẫn người khách nếu khách có hai người, ba người, năm người, người này dẫn khách đi từ cửa vào tới bàn, nhưng người này không phục vụ, chỉ dắt tới bàn thôi, sau đó khi khách ngồi xuống rồi sẽ có một người bồi bàn đến để phục vụ. Thì người dắt khách đến bàn đó được ví dụ như tâm tiếp thu, một công đoạn nằm giữa người đứng chào khác và người bồi bàn phục vụ.
Thì tâm tiếp thu này là một cơ năng chuyển tiếp nhưng phải mang tính tương ương với tâm ngũ quan. Nghĩa là ngũ quan là quả thiện thì nó phải là quả thiện, mà quả bất thiện thì là quả bất thiện, chứ không có trường hợp nào mà tâm ngũ quan là quả thiện mà tiếp thu là quả bất thiện, hay là tâm ngũ quan là quả bất thiện mà tâm tiếp thu là quả thiện, nó phải là một dòng tiếp theo, nó là một êkip làm việc chung với nhau, là một nhóm ngũ quan, rồi tiếp thu, rồi quan sát, thì nó phải là quả thiện, hay quả bất thiện tương đương với tâm ngũ quan, điều đó chúng ta cần nhớ.
Tâm quan sát
Tiếp theo là tâm quan sát, tâm này ghi nhận đơn thuần một số các cảnh. Trong bài học, thí dụ như trường hợp một người làm việc trong ngân hàng, khi người tiếp tân đưa khách bên ngoài vào thì công việc của vị này là lấy tên họ người khách là gì, đến lúc mấy giờ, có hẹn hay không có hẹn, và muốn gặp ai v.v... thì đó là tâm quan sát, rồi sau đó chuyển qua tâm phân định (Ngài Tịnh Sự gọi là tâm phân đoán) tức là, nếu người khách đó đến để vay tiền thì đưa đến phòng vay tiền, nếu người khách đến để mở chương mục thì đưa khách đến gặp những người trách nhiệm về chương mục, tâm này là tâm phân định.
Có 3 thứ tâm quan sát:
1. Tâm quan sát quả bất thiện thọ xả.
2. Tâm quan sát quả thiện thọ xả
3. Tâm quan sát quả thiện thọ hỷ
Nếu cảnh hiện đến là một cảnh tương đối rất lớn quả thiện, thì tâm quan sát thọ hỷ làm công việc dư hưởng. Công việc này tạm thí dụ như khi có một người khách rất thân quen một khách rất lớn, sau khi giải quyết xong công việc trở ra thì người này lấy tên họ hồi nãy đứng lên chào đón, cũng là xã giao nhưng xảy ra nồng nàn hơn, thì tâm quan sát làm công việc dư hưởng như vậy.
Tuy nhiên, tâm quan sát có 3 vai trò rất quan trọng, nói bây giờ thì hơi sớm, sau này chúng ta sẽ nói đến tâm quan sát làm việc tục sinh, và hễ tâm nào làm việc tục sinh thì tâm đó phải làm hộ kiếp, và tâm nào làm việc hộ kiếp thì tâm đó là tâm tử.
Nói một cách khác, 3 thứ tâm, tục sinh, hộ kiếp, tâm tử, cũng là một thứ tâm, nhưng tâm tục sinh là tâm khởi đầu, tâm tử là tâm cuối cùng của kiếp sống. Thì tâm khởi đầu và tâm cuối cùng đó hoàn toàn giống như tâm tiềm thức chặn giữa. Ngài Tịnh Sự gọi là tâm hộ kiếp nằm ở giữa hoàn toàn giống y hệt như vậy, tục sinh bằng tâm nào hộ kiếp bằng tâm đó, hộ kiếp bằng tâm nào thì tử bằng tâm đó.
Thì ở đây, điều chúng ta muốn nhắc là, do tâm quan sát này, ngoài chức năng quan sát, thì nó làm công việc tục sinh, tức là nó có thể làm cả chức năng hộ kiếp và chức năng tử nữa. Chúng ta nhớ là có 3 tâm quan sát thì, tâm quan sát quả bất thiện có thể là tâm tục sinh của chúng sanh cõi, khổ, địa ngục, ngã qủi, sanh làm người khổ, và tâm quan sát quả thiện sanh làm người lạc.
Chúng tôi nói thêm là, tâm quan sát thọ hỉ chỉ làm công việc của tâm dư hưởng chứ nó không làm việc tục sinh. Khi nói đến làm tục sinh thì tâm quan sát quả bất thiện tuy là thọ xả nhưng nó trở thành một tâm tục sinh hộ kiếp của chúng sanh sanh trong cõi, địa ngục, ngã qủi, súc sanh v.v.. Thì căn bản mà nói, ai tục sinh bằng tâm này mà tâm tiềm thức là tâm quan sát là tâm tiềm thức thì chúng sanh đó không có chất liệu của thọ hỉ.
Có 2 thứ hạnh phúc ở trong đời sống, một là hạnh phúc bằng tâm hoạt thức, hai là hạnh phúc bằng tâm tiềm thức. Như một người tam nhân, một người bình thường mà đầy đủ về hữu phúc, họ sanh ra có chất của thọ hỉ ở trong tiềm thức, hay là có chất của, vô tham, vô sân, trong tâm của họ. Thành ra nhiều khi bị căng thẳng họ có thể ngủ một giấc, và trong giấc ngủ đó do tiềm thức là tâm tịnh hảo quả thiện, mà tâm tịnh hảo thì giấc ngủ có thể lấy lại sự quân bình của thân tâm của họ do ảnh hưởng tiềm thức. Nhưng với những chúng sanh trong cõi khổ như, địa ngục, ngã qủi, súc sanh v.v... ngay cả trong giấc ngủ thì ảnh hưởng của tâm, những tâm làm việc tiềm thức ảnh hưởng với tiềm thức nó không có đủ để mang lại cho họ một sự khỏe khoắn sảng khoái, tại vì họ tục sinh bằng tâm quan sát quả bất thiện.
Về điều này, ở đây, chúng tôi tin tất cả chúng ta đều là người sanh ra bằng tâm quả thiện tam nhân. Những lúc chúng ta mệt hay căng thẳng, ngủ một giấc sâu, trong lúc ngủ chúng ta cho phép thân nghỉ ngơi, tâm trở về với tâm tiềm thức, trở về với trạng thái tiềm thức bhavanga, mà trạng thái đó là quả thiện có thọ hỉ hay hợp trí v.v... thì nó sẽ làm cho thân tâm của chúng ta tươi nhuận lại, thành ra sau giấc ngủ tiềm thức, khi dậy chúng ta thấy mình khỏe cả thân lẫn tâm.
Với một người tục sinh bằng tâm quan sát, thì quả bất thiện, hay quả thiện cũng vậy, nó quá yếu thành ra giấc ngủ không bù lại được nhiều.
Về điểm này, chúng ta cũng phải nói thêm, có một hạng người ở trong kinh gọi là người lạc, người lạc không phải là người hạnh phúc, mà người lạc là người không tục sinh bằng tâm quan sát quả bất thiện, mà là tục sinh bằng tâm quan sát quả thiện, tức là quả thiện là quả tốt, nhưng chưa đủ tốt để làm người bình thường. Thí dụ, một người, bị câm, bị điếc v.v... câm điếc bẩm sinh, thì người đó là người bị quả xấu. Nhưng theo Thắng Pháp thì người đó vẫn bằng tâm tục sinh tâm tốt, hễ sanh làm người là tục sinh bằng tâm quả thiện nhưng quả thiện đó chưa đủ để họ có đầy đủ về ngũ quan. Thành ra ở đây, chúng ta phân biệt giữa người sanh ra bằng tâm quả bất thiện, tâm quả xấu khác biệt với một người sanh bằng tâm quả tốt, nhưng mà chưa đủ tốt.
Thí dụ, như một người từ cảnh khổ mà qua bên Mỹ thì được xứ tự do, đồng ý, nhưng qua được xứ tự do rồi, tuy nhiên, người này không đủ ngôn ngữ, không đủ văn hóa, không đủ điều kiện để hưởng thụ sự tự do đó. Tức là được sang xứ tự do nhưng không đủ điều kiện để hưởng thụ sự tự do, chúng ta nói rằng không khổ, nhưng không đủ phước. Bởi vậy nhiều khi nhân quả ở trong Thắng pháp khác với cách hiểu ở trong kinh, mình nói tại sao người sanh ra bị câm mà người đó lại không phải sanh ra bằng quả bất thiện, mà người đó sanh ra bằng tâm thiện mới sanh làm người, nhưng quả thiện đó không đủ để trở thành người bình thường, do vậy, người đó bị khuyết tật bẩm sinh. Chúng ta nên hiểu cách đó về người lạc.
Nói thêm về tâm tục sinh và tâm hộ kiếp hay là tâm tiềm thức, tâm tử về sau này, nhưng, chúng ta nhớ rằng tâm quan sát ngoài việc làm quan sát là bộ phận cơ năng, là bộ phận máy móc ở trong diễn trình tâm thức, thì tâm làm 3 việc là, tục sinh, tiềm thức, và tử, là 3 vai trò rất quan trọng, quan trọng tại vì nó quyết định chủng loại tái sanh, và chủng loại ở đây là người khổ hay người lạc, người khổ là người sanh ở trong bốn đường ác đạo, và người lạc ở đây được sanh làm người nhưng thiếu phước.
Bây giờ chúng ta nói 2 tâm khác đó là tâm khai ngũ môn và tâm khai ý môn.
Tâm khai ngũ môn đơn giản như người mở cổng, nhưng tâm này đặc biệt là tâm bắt đầu cho hoạt thức sanh khởi, tức là sau khi tiềm thức gián đoạn là tâm khai môn. Cũng giống như, bình thường trong một công ty mà khách không đến, khi có khách đến, bước đầu tiên là mở cổng, thì tâm khai môn làm là cần mở cổng để sau đó tâm ngũ quan biết 5 cảnh, sắc, thinh, khí, vị, xúc, ở bên ngoài.
Tâm khai ngũ môn khác với tâm khai ý môn ở điểm là tâm khai ý môn làm công việc đặc biệt như người trợ tá cho vị giám đốc. Chúng tôi lấy ví dụ như ông Nguyễn Văn A đến gặp ông giám đốc xin vay tiền, khi mọi người đã sắp xếp đâu đó rồi đưa vào ông giám đốc, thì trước khi gặp giám đốc người đó phải gặp trợ tá của ông giám đốc, người trợ tá trực tiếp của ông giám đốc. Người trợ tá này nghe có người đến để làm việc gì đó, trong tư cách người trợ tá giám đốc, người này sẽ chuẩn bị những hồ sơ những văn kiện chi tiết là người đến đây là ai, làm việc gì, và cố vấn để cung cấp những chi tiết cho vị giám đốc xử lý hồ sơ đó. Thì tâm khai ý môn ở trên căn bản nó làm việc như một tâm dọn đường cho tâm xử lý.
Thì như vậy:
Tâm khai ngũ môn là tâm bắt đầu cho tâm hoạt thức và mở cửa để cho tâm ngũ quan có thể biết cảnh.
Nhưng, tâm khai ý môn, thì mở cửa cho tâm xử lý, tâm khai ý môn này làm việc phân định, tâm ý môn có một phần hành rất quan trọng ở điểm là khi nào chúng ta học về uẩn, xứ, ý giới, 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, chúng ta sẽ hiểu được rằng ý giới là tâm ý môn thuộc về ý giới.
Ý giới khác với ý thức giới, hai cái đó khác nhau, chỉ trong Thắng Pháp mới giải rõ về 18 giới này và, trong 18 giới này chúng ta mới hiểu rõ tại sao có sự khác biệt giữa ý giới và ý thức giới.
Trong bài học này, chúng tôi không đào sâu vào mà chi nói sơ như vậy, vì chúng tôi sợ những người mới vào học, đọc loáng thoáng qua những tâm này nghĩ nó là tâm cơ năng không có gì quan trọng hết và, đã không có gì quan trọng thì chúng ta không phải lưu tâm làm gì.
Nhưng kỳ thực, những tâm như, tiếp thu, quan sát, khai ngũ môn, khai ý môn, trong khi khai ý môn đặc biệt làm công việc, phân định, tâm tiếp thu, tiếp nhận, quan sát, phân định, đều có một mức độ quan trọng ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta. Nhưng, những thứ như, tiếp thu, quan sát, phải tương thích hoàn toàn với tâm ngũ quan.
Tâm khai ngũ môn thì vô thưởng vô phạt, mà nó là tâm quả thiện, quả bất thiện chắc chắn, nhưng tâm tiếp thu, tâm quan sát thì phải tương thích và, nếu ngũ quan là quả thiện thì, tiếp thu, quan sát cũng phải là thiện, và ngũ quan là quả bất thiện thì nó cũng là quả bất thiện. Về điểm này thì chúng ta sẽ có dịp để trở lại khi chúng ta học về duyên hệ sẽ hiểu rõ hơn.
Ở đây, có một luật bắt buộc tương thích giữa tâm ngũ quan, tâm tiếp thu, tâm quan sát, phải đi chung một nhóm với nhau, tâm ngũ quan là quả bất thiện thì tiếp thu quan sát cũng là quả bất thiện, tâm ngũ quan là quả thiện thì 2 tâm tiếp thu, quan sát, cũng là quả thiện, đó là chuyện tương tự.
Các tâm cơ năng là máy móc, trong tính cách rất máy móc vẫn chi phối bởi nghiệp quả, chứ không phải là nó không bị cái gì.
Tâm sinh tiếu.
Tâm này nằm lẻ loi ở trong biểu đồ, có lẽ là trong tất cả những tâm được Ngài HT Tịnh Sự, dựa trên Thắng Pháp để giảng và thiết kế ra đồ họa, đó là tâm sinh tiếu, Ngài dịch là tiếu sinh tâm hay ứng cúng vi tiếu, đó là tâm cười của vị Alahan.
Về điểm này, chúng tôi xin thưa rằng, chúng tôi có nói chuyện với TT Tuệ Siêu và, cũng có đọc nhiều bản sớ giải, thì có một chút dị biệt về vai trò của tâm vi tiếu. Hôm nay, chúng tôi chỉ nói một cách đơn thuần theo những gì học từ Ngài HT Tịnh Sự.
Cười là một phản ứng mang tánh cách cảm xúc, mình thấy chuyện đó là chuyện tức cười thì cười. Tuy nhiên nói như vậy không áp dụng ở trong mọi trường hợp được, ở đây, một chuyện rất tế nhị, theo trong kinh thì cười có nhiều cách, có những cách cười ngả ngớn, cười hô hố, cười hở răng, cười nhếch môi, cười mỉm v.v...
Đối với Chư Phật toàn giác như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thông thường khi Đức Thế Tôn cười thì Ngài cười bằng 2 tâm là, tâm đại hạnh thọ hỉ hợp trí, hay tâm duy tác thọ hỉ hợp trí. Có nghĩa là Đức Thế Tôn nhìn thấy sự việc gì thì ở trên khuôn mặt của Ngài nở ra một nụ cười mỉm rất nhẹ, thông thường Tôn Giả Ananda thấy điều đó và Tôn Giả đã hỏi Đức Thế Tôn. Thí dụ, có một lần Đức Thế Tôn đi ngang một nơi Ngài nhìn và Ngài cười mỉm, Tôn Giả Ananda hỏi Ngài vì cơ duyên nào Đức Thế Tôn có nụ cười như vậy? Đức Phật Ngài nói rằng:
- Chính ở tại nơi này Đức Thế Tôn Kassapa đã từng ngồi và tại đó Ngài đã từng có một đệ tử tên là Atikkara, để ta kể cho ngươi nghe.
Và Tôn Giả Ananda đã lấy tọa cụ trải ngay chỗ đó.
- Như vậy, bạch Đức Thế Tôn, kính thỉnh Đức Thế Tôn ngồi lên đây, một nơi có 2 vị Chánh Đẳng Chánh Giác đã ngồi.
Thì như vậy, Đức Thế Tôn Ngài không cười vì vô cớ hay Ngài không cười vì một chuyện không thể nhịn cười được, mà Ngài cười nhẹ, cười mỉm.
Chư Phật Độc Giác cười có 4 tâm đại hạnh thọ hỉ, nhưng trong đó có tâm ly trí. Riêng về chư vị Thanh Văn đệ tử của Đức Phật thì các Ngài cười ngoài 4 tâm đại hạnh thọ hỉ, tức tâm duy tác thọ hỉ, thì các Ngài còn cười với tâm sinh tiếu.
Tâm sinh tiếu này là cách cười do ảnh hưởng của thói quen trong quá khứ. Chúng tôi lấy một ví dụ, Đức Phật Ngài là vị không có tiền khiên nghiệp là, sự ứng xử, hành xử của Chư Phật Toàn Giác như Đức Phật không do thói quen ảnh hưởng ở quá khứ, tiền khiên tật đó là thói quen còn sót lại. Nhưng một số những đệ tử Phật hàng Thinh Văn thì còn có nghiệp trong quá khứ, như Ngài Xá Lợi Phất là người uy nghi tế hạnh rất đẹp, nhưng Ngài có thói quen khi Ngài đi ngang qua vũng nước, thì Ngài ít khi nào bước chậm, mà Ngài bước rất là nhanh giống như nhẩy nhanh vậy, thì theo trong kinh nói do tiền khiên nghiệp là có nhiều kiếp trong quá khứ hàng mấy trăm kiếp cả ngàn kiếp Ngài liên tục sanh làm loài khỉ gặp rãnh nước là nhảy qua cho đến bây giờ vẫn còn.
Hay là, có một vị đại đệ tử khác của Đức Phật khi nói chuyện thì hay có cách nói của kẻ cả, không có cách nói khiêm tốn của một vị samôn khiêm tốn bình thường, mà nói như là, một người lớn, một vị vua, một vị chủ nhà. Thì Đức Phật cho biết tại vì vị đó ở trong đời quá khứ, có rất nhiều kiếp, bao nhiêu trăm kiếp, vốn là vị chủ giàu có nên quen cách nói với người dưới giọng nói như vậy
Thói quen của đời quá khứ không phải là phiền não, chỉ là thói quen, đôi khi trong cách nói ngày nay chúng ta gọi là vô thức, tức là không chủ tâm, chỉ là một khía cạnh tự nhiên, một sự tồn đọng của thói quen trong quá khứ mình đã quen như vậy rồi. Thói quen đó còn gọi là thường cận y duyên là, thói quen quá khứ mình để lại còn tồn tại. Đối với chư vị Alahan Thinh Văn thì các Ngài còn một số không phải là phiền não mà chỉ là một thói quen, chúng ta gọi là vô thức nói theo luận tạng gọi là vô thức, nhưng trong Phật Giáo thì không thể nói hành động vô thức được. Chúng ta nói là có thói quen hay dùng chữ là tiền khiên tật. Nhưng chư Phật Toàn Giác hoàn toàn không.
Chư vị Alahan khi thấy chuyện đó các Ngài mỉm cười không phải vì các Ngài nghĩ chuyện đó quá quan trọng hay không dằn được cảm xúc, hay các Ngài không có chuyện gì để cười nhưng do thói quen thấy là cười thành ra gọi là tâm sinh tiếu, tâm này rất tế nhị.
Chúng tôi có nói chuyện với TT Tuệ Siêu cách đây mấy hôm, thì việc này TT cũng đồng tình đó là, nếu Thắng Pháp Abhidhamma là một tác phẩm do người ta sáng tác và, sáng tác có bố cục, có dàn dựng suy diễn thì chắc chắn sẽ không để tâm sinh tiếu ở đây, tại vì tâm sinh tiếu không nằm chỗ nào hết, thì cứ nói là vị Alahan sanh bằng 4 tâm duy tác thọ hỉ là được rồi, nhưng mà không, bởi vì đây là một thực tính pháp, tức là một pháp có thực ở trong thiên nhiên, tâm sinh tiếu này của một vị Alahan không thuộc về tâm hữu nhân, cũng không thuộc về tâm tịnh hảo, do đó liệt vào trong 18 tâm này chung với các tâm cơ năng khác.
Về việc này, thì nó như vậy thì ghi nhận như vậy thôi. Ví dụ, một người nghiên cứu về nghệ thuật thiên nhiên đi vào trong rừng ghi nhận về các loài hoa lan. Bởi vì, một người nghiên cứu về nghệ thuật, thiên nhiên có cái gì thì ghi cái đó, không giống như một văn sĩ đem vào câu chuyện của mình, hay vị đạo diễn đem dựng thành phim thì phải chọn lọc cái gì có ý nghĩa, cái gì hấp dẫn, cái gì nên để ý. Không, một nhà sinh vật học không có sự lựa chọn đó, nhà sinh vật học có cái gì ghi nhận cái đó.
Thì ở đây, khi chúng ta học Thắng Pháp cũng giống như chúng ta học về một ngành khoa học tự nhiên, tức là có cái gì thì ghi nhận cái đó thôi và, trong sự ghi nhận đó thì có tâm sinh tiếu. Chúng tôi mong rằng qúi vị hiểu khi chúng tôi nói như vậy, có nghĩa là tâm sinh tiếu mang ý nghĩa rất đặc biệt. Nhưng theo ở trong những gì chúng tôi vừa nói với sự giải thích của Ngài Tịnh Sự thì chư Phật không cười bằng tâm này tại vì tâm này thuộc về tiền khiên tật, thuộc về thói quen chỉ có chư vị Alahan Thinh Văn thì có tâm sinh tiếu.
Ngữ và Nghĩa.
Hôm nay chúng tôi cố gắng để nhắc đến một khái niệm chung chung là, khi học Thắng Pháp để ý ở trong Thắng Pháp những hình dung từ không thể nói chung chung nó lầm lẫn qua Kinh Tạng, phải vẽ lằn ranh rõ ràng.
Thí dụ.
- Cái không xấu thì không có nghĩa là tốt.
- Cái không tốt cũng không có nghĩa là xấu.
- Tâm sinh tiếu không phải là tâm tịnh hảo, tại vì tâm này không đi với thuộc tánh như là, vô tham, vô sân, vô si, thành ra nó không thể tính là tâm tịnh hảo, nhưng, không nghĩa là tâm xấu. Chúng ta nhớ như vậy.
Hay là ở trong Thắng Pháp có nhiều khi định nghĩa là:
- Tâm tịnh hảo cũng không hẳn là tâm thiện.
- Tâm thiện thì chắc chắn phải là tâm tịnh hảo.
Bây giờ mình làm việc bố thí trì giới là tâm thiện, tâm đó thuộc về tâm tịnh hảo.
Nhưng một vị Alahan như Đức Phật hay các Tôn Giả đệ tử Phật các Ngài thuyết pháp độ đời bằng tâm duy tác thì, tâm đó là tâm tịnh hảo tâm tốt. Nhưng tâm đó không phải là tâm tạo nghiệp thiện, tại vì chư vị Alahan không còn tạo nghiệp thiện nữa.
Về điểm này, chúng ta phải nói trong Thắng Pháp, thí dụ, một tâm tịnh hảo dục giới có 3 là, tâm thiện, tâm quả và tâm duy tác, thì cả tâm thiện, tâm quả, và tâm duy tác, đều là tâm đẹp, tâm tốt, tâm tịnh hảo (sobhaṇa). Nhưng mà tâm đẹp tâm tốt, thì tâm nào cho quả gọi là tâm thiện, và cái nào là kết quả của tâm thiện tâm quả, và tâm của vị Alahan chỉ có làm mà không có kết quả của việc làm gọi là tâm duy tác, thì tâm duy tác đó không được gọi là tâm thiện tại vì nó không cho quả, nhưng mà tâm duy tác là một thứ tâm tịnh hảo. Thành ra cách nói có khi nhầm lẫn hơi lạ,
Hôm nay chúng ta nói về tâm sinh tiếu đó là một thứ tâm vô nhân hay là tâm vô căn, tức là nó không có, căn tham, căn sân, căn si, hay, căn vô tham, căn vô sân, căn vô si, nó chỉ thuần là thứ tâm máy móc do thói quen đời quá khứ để lại làm việc cười của chư vị Alahan.
Chúng tôi diễn tả điểm này, đôi khi mình nói chuyện trong các bài học, chúng tôi rất ngại là chúng ta có những sự nhọc nhằn hay nhầm lẫn giữa khái niệm thông thường và khái niệm vĩ mô. Thí dụ, khi chúng tôi sửa một cái máy gì thì trong cái máy đó thấy có nhiều cơ phận, có giòng điện dẫn đến cái cầu chì chẳng hạn, hay cái biến điện nó chuyển điện từ 210 qua 110 chẳng hạn, thì khi nói chúng ta dễ có cảm giác những cơ phận đó hành xử như một con người chuyển từ chỗ làm việc này đến chỗ kia làm việc kia. Ở trên thực tế chỉ là một cơ phận của cái máy, chúng ta nói thì phải nói như vậy để cho dễ hiểu, cái này tác động cái kia. Thành ra chúng tôi luôn luôn nhắc là ở trong Thắng Pháp chúng ta nói nhiều sự việc với tánh cách vĩ mô và, trong cách vĩ mô đó không nên hiểu như cách con người hành xử.
Cách đây một hôm, chúng tôi đọc bài viết nói về sự di chuyển tinh trùng của người nam khi đến noãn châu (trứng) của người phụ nữ, họ nói rằng từ mấy trăm năm nay người ta cứ tưởng tinh trùng đi theo một cách như bơi lội, bây giờ qua kính hiển vi và đồng thời bằng cách ghi nhận 3 chiều, người ta thấy tinh trùng di chuyển khác với cách bơi lội bình thường của chúng ta. Khi chiếu lên và giải thích thì mình có cảm tưởng là tinh trùng là một sinh vật và sinh vật đó, có lựa chọn, có sự phân định, là nó phải đi theo hướng nào và đi bằng cách nào v.v... Nhưng kỳ thực thì tinh trùng không phải là một chúng sanh. Đức Phật Ngài dạy rằng tinh trùng nó phải gặp noãn châu trứng của người nữ và nó kết hợp với thức tái sanh, tức là 3 thứ đó, hương ấm, thức tái sanh, rồi noãn châu tinh trùng gặp nhau, thì mới thụ thai, thì khi thụ thai rồi mới thành một chúng sanh, lúc đó mới thật sự là chúng sanh, nhưng tinh trùng không phải là một chúng sanh. Tuy nhiên, cách người ta diễn tả tinh trùng bơi lội như thế nào trong chất loãng, thì bấy giờ chúng ta có cảm tưởng như đang nói về một chúng sinh, nó cũng bơi nhưng mà cách nói đó rất là vĩ mô,
Do vậy, khi học trong Thắng Pháp, mình nói rằng tâm tiếp nhận, tâm quan sát gọi là phân định thì phân định đây như là phân định của tâm khán ý môn, và sự phân định này rất là nhỏ rất vi tế, như chúng tôi nói chữ phân định này tương tự như một người trợ tá cho vị giám đốc, vị giám đốc là người thật sự xử lý hồ sơ đó, nhưng vị trợ tá là người chuẩn bị hồ sơ cho vị giám đốc, thì điều đó không có nghĩa sự phân định này là kiểu sự phân định của tâm xử lý, mà tâm xử lý phân định trong cách khác, tâm phân định này là phân định của một người trợ tá để trình hồ sơ, nhưng không làm quyết định như vị giám đốc, hai cái đó chúng ta phải phân biệt./.