Sunday, September 20, 2020

Thắng Pháp Abhidhamma - Bài 12. Tâm Ngũ Quan (tiếp theo)

 Thắng Pháp Abhidhamma

Bài 12 - Tâm Ngũ Quan (tiếp theo)


Minh Hạnh ghi chép

TT Giác Đẳng:  Học Thắng Pháp Abhidhamma sẽ có một chút ngạc nhiên, đa phần những lớp học giáo trình Abhidhamma, đặc biệt đối với phần lớn qúi vị giảng sư thì tâm ngũ quan hay ngũ song thức thường được nói rất nhanh rất gọn, thậm chí đôi khi không phải hai buổi học như chúng ta, mà chỉ học nửa buổi học thôi, các vị dạy luôn cả 18 tâm vô nhân và có thể dạy 15 tâm quả vô nhân. 

Chúng tôi đặc biệt dùng hai buổi học chỉ riêng về ngũ quan, bởi vì, chúng ta cần  học rõ về 6 thức, 5 thức đầu: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, tức là chúng ta nói về thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác, 5 thức đó mở cho chúng ta những cánh cửa tiếp xúc với thế giới bên ngoài, tiếp xúc 5 cảnh, sắc, thinh, khí, vị, xúc, đó là một phần quan trọng trong đời sống, qua phần này chúng ta hiểu nhiều về sự hoạt động của tâm thức theo trong Thắng Pháp Abhidhamma. 

Trong những câu chuyện về thiền được bàn thảo phổ biến, có một câu chuyện thiền, hỏi là: "Tâm động hay phướng động". 

Trong duy vật biện chứng của cộng sản, họ đặt vấn đề là "thế giới này tồn tại có độc lập với tâm thức hay không". 

Thí dụ, bây giờ mình nói đến một cái nhìn nào đó. Trong Kinh Hoa Nghiêm của Bắc Truyền, có câu "Nhất thiết duy tâm tạo", tất cả những hiện tượng do tâm vẽ, tâm như người họa sĩ vẽ vời cảnh thế gian.

Như vậy thì, có một thế giới tồn tại độc lập với tâm thức hay không? 

Bài học về tâm ngũ quan là một chìa khóa trong Thắng Pháp để chúng ta hiểu rõ tâm thức đối với cảnh hoạt động như thế nào.

Cảnh ở đây là cảnh rất thật, bây giờ có mùi sầu riêng, câu hỏi là: khi chúng ta biết thì có mùi sầu riêng hiện hữu, khi chúng ta không biết thì mùi sầu riêng có hiện hữu hay không? Đó là điều tất cả chúng ta cần phải biết.

Một điểm khác cần nói ở tại đây, những khái niệm TT Tuệ Siêu đã giảng trong bài học trước về tâm ngũ quan: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức. Mới thoạt nghe thì nghĩ rằng đó là những tâm làm việc rất quan trọng, thí dụ, người ta nói: "Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn". Như vậy cái gì mình thấy thuộc về nhãn thức, thuộc về thị giác, như vậy thị giác phải đóng vai trò lớn. 

Nhưng trong Thắng Pháp Abhidhamma nói rằng tâm nhãn thức hay thị giác thì biết cảnh ở trong một hình thức uyên nguyên, một hình thức chưa được, thẩm định, định đoán,  nhồi nặn, phán xét, xử lý, mà tâm xử lý cảnh là do tâm javana hay một tâm khác, chúng ta học sau, nhưng nhãn thức chỉ đơn thuần là biết cảnh sắc. 

Tại sao vậy? 

Chúng ta muốn trả lời câu này thì phải đi vào những yếu tố tạo nên tâm ngũ quan. 

Nếu nhìn kỹ thì thấy rằng mỗi giác quan, dù là nhãn thức hay thị giác, nhĩ thức hay thính giác, tỉ thức hay khứu giác, thiệt thức hay vị giác, thân thức hay xúc giác để sanh khởi trước nhất cần có căn và cảnh, hay nói cách khác, cần có thần kinh, chúng ta gọi là vật để tâm nương, thí dụ, nhãn thức thì phải nương vào thần kinh nhãn, nhĩ thức phải nương vào thần kinh nhĩ. 

1. Yếu tố thứ nhất: Vật hay thần kinh hệ

Trong bài đọc kỳ trước, chúng ta nói nhãn thức cần phải có nhãn vật, nhãn vật là con mắt, nhưng kỳ thật, có điểm rất thú vị, Phật học và khoa học và y học ngày nay cũng nhận ra một điều rằng, cái gọi là nhãn vật hay thần kinh nhãn không phải chỉ là con mắt, mà phải nói rõ hơn là đồng tử hay con ngươi, một bộ phận ở trong khoa học ngày nay gọi là optic nerve (thần kinh thị giác) nằm ở trong con ngươi để qua đó chúng ta có thể nhận biết cảnh sắc. Giống như bây giờ chụp hình bằng máy chụp hình, nhưng bộ phận chính bắt cảnh là cái lens (thấu kính), bộ phận ghi hình đó ghi hình qua cái lens, như vậy thân của máy chụp hình không phải là bộ phận ghi hình, bộ phận ghi hình đó là bộ phận khác, chúng ta phải hiểu như vậy.

Nói về mũi, không phải mũi chúng ta nhìn thấy bên ngoài mà là thần kinh tỉ nằm bên trong mũi, trong kinh nói hình móng con dê.  

Nói về thiệt thức là thần kinh thiệt, có khả năng niếm vị, thần kinh thiệt mình nghĩ là lưỡi nhưng thật ra là những thần kinh giống như đầu lông con nhím nhỏ li chi trên lưỡi của mình. Chúng ta nói mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là nói rất đại loại.

Thần kinh thân, tất cả những cảm giác như đau nhức dễ chịu v.v... lâu lâu chúng ta bị đau nhức khớp xương, bị phong thấp, hay đau bụng thuộc về cảnh xúc. Hỏi thần kinh thân ở đâu, thì thần kinh đó ở khắp châu thân. Trong kinh Thắng Pháp Abhidhamma cũng nói như vậy. Và ngày nay, thì nói rằng thần kinh liên quan đến xúc giác, có đủ mọi thứ, xúc giác ở đây không hẳn là chỉ có tiếp xúc giữa bàn tọa chúng ta với chỗ ngồi, hay lưng của chúng ta với chỗ nằm, mà một hạt bụi rơi vào con mắt, mắt bị xốn, không thuộc về thị giác mà thuộc về xúc giác. Chúng ta nên hiểu thần kinh thân cùng khắp châu thân mình ở nhiều dạng thức. Trên phương diện y học người ta chia ra rất nhiều nhóm về thần kinh thân, thí dụ, có  facial nerve (thần kinh mặt), thì riêng facial nerve (thần kinh mặt) này là một nhóm nhỏ ở trong hệ thần kinh thân lại chia nhiều phần khác nhau. 

Các hệ thần kinh ở trong kinh Phật, chúng ta thường nghe đến "căn", thí dụ:

- Nhãn căn, nhĩ căn, tỉ căn, thiệt căn, thân căn.

- Rồi chúng ta nói đến, nhãn vật, nhĩ vật, tỉ vật, thiệt vật, thân vật.

- Rồi chúng ta nói đến, thần kinh nhãn, thần kinh nhĩ, thần kinh tỉ, thần kinh thiệt, thần kinh thân.

Những danh từ đó tuy sài khác nhau nhưng thật sự đều là một. Nhãn vật là thần kinh nhãn, nhưng thần kinh nhãn không hẳn là con mắt, ở trong con mắt có thần kinh nhãn.

Những căn này sanh lên do đâu?  Sanh lên do thức duyên cho danh sắc và danh sắc duyên cho lục nhập. 

Thức duyên cho danh sắc, thức ở đây là thức tái sanh,  sanh ra làm người, làm con khỉ, làm chư thiên, làm các vị thiên tử. Thì do thức tái sanh tạo ra danh sắc, danh sắc ở đây là chủng loại. Con mắt của chư thiên khác với mắt của chúng ta, con mắt của chúng ta khác với con mắt của loài khỉ, tai của con chó khác tai con người, tai con người khác tai chư thiên. Như vậy mặt dầu nói rằng, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, nhưng, đừng nghĩ là tất cả loài có mắt thì mắt giống nhau, tất cả loài có tai có thính giác giống nhau, tất cả loài có mũi, thì khứu giác giống nhau, không phải như vậy, mà, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, của mỗi loài khác biệt do chủng loại và chủng loại đó là do nghiệp. 

Ngay cả ở trong thế giới loài người, có người mắt rất tinh, có người mắt không tinh, ví dụ, trong khoa học nói có những người bị bệnh rối loạn sắc giác, không nhận ra màu nào đó, hay, trong loài vật, có những loại màu không nhận ra, bởi vậy có những con vật ăn trái cây không ăn bằng màu sắc chúng chỉ dùng khứu giác để nghe mùi biết là trái đó còn sống hay chín. 

Căn bản đầu tiên là, thần kinh nhãn, thần kinh nhĩ, thần kinh tỉ, thần kinh thiệt, thần kinh thân, do nghiệp. Chúng ta nhớ rằng thức tái sanh, duyên cho danh sắc, thức tạo ra chúng ta, sanh làm người, làm trời, làm loài vật v.v... trong thức đó tạo ra danh sắc, danh sắc là các chủng loại như loài người, chủng loại đó quyết định các căn, chúng ta gọi là, lục nhập duyên cho danh sắc, danh sắc duyên lục nhập. Thì ở đây các căn của chúng ta hoàn toàn do nghiệp.

 Lấy một ví dụ, Đức Thế Tôn Ngài do phước quá khứ, khi Ngài sanh ra đời một ở trong đại trượng phu tướng của Ngài là lưỡi của Ngài rất bén nhạy, Ngài thọ dụng thực phẩm ngon hơn người không có phước tướng về lưỡi, lưỡi Ngài tinh tế hơn. 

Chúng tôi lấy một ví dụ dễ hiểu hơn, ở trong thế giới âm nhạc có những người có musical ear nghĩa là thẩm âm rất tốt, đây là kinh nghiệm của chúng tôi không có thẩm âm tốt,  nghe người ta hát chúng tôi không lập lại được như một người có musical ear, tai nghe thẩm âm tốt, do phước quá khứ, họ nghe âm nhạc độ luyến láy tiết tấu ghi nhận rất rõ, do rõ như vậy, khi tai họ có độ thẩm âm tốt họ hát sẽ hay hơn người không có thẩm âm tốt. 

Độ bén nhạy của các thần kinh khi tiếp xúc là do phước.

2. Yếu tố thứ hai: Cảnh

Bây giờ chúng ta nói qua cảnh, sắc, thinh, khí, vị, xúc.

Cảnh do nghiệp chi phối, sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc lạc, sanh khởi do nghiệp. 

Nói một cách khác, theo Thắng Pháp Abhidhamma và Phật học, có những người suốt đời không bao giờ thấy được cảnh đẹp, mà "luôn luôn là những điều trông thấy đau đớn lòng", thí dụ, đi làm phải đi nhìn những cảnh tượng không tốt, đi đâu cũng gặp cảnh tượng không tốt và ăn không phải lúc nào cũng được ăn ngon. Có những người suốt đời không có phước về thực phẩm. Khi mình sống nhất là những người sống tại các quốc gia có nhiều vật chất cứ nghĩ rằng những gì mình có như là, sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc lạc, do có tiền có thể mua được, mình tạm quan niệm như vậy, nhưng cũng phải có phước mới có tiền, chứ không phải ai cũng có tiền. Nhưng, cũng có nhiều người có tiền nhưng tại phước không đủ, họ không có được những cảnh khả ái khả ý, như trong kinh có nói đến một người bá hộ rất giàu nhưng lại rất bần tiện, cả đời mặc áo vải thô ăn cơm hẩm, tại vì bỏn xẻn. Thì như vậy, đừng bao giờ nghĩ những gì tốt đẹp mình có trong cuộc sống từ, mắt thấy sắc đẹp, tai nghe tiếng hay, mũi ngửi mùi thơm, lưỡi nếm vị ngon, thân xúc chạm êm ái, nghĩ rằng những thứ đó là ngẫu nhiên, hay những thứ đó là hên xui, mà tất cả là sự vận hành, sự chiêu cảm, sự đẩy đưa, của nghiệp quá khứ, của phước quá khứ.

Chúng tôi nhắc đến hai điều, mỗi một giác quan dù, thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác, trước nhất cần 2 yếu tố đầu tiên là căn và cảnh. 

Căn và cảnh đều do nghiệp chi phối, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, thần kinh nhãn, thần kinh nhĩ, thần kinh tỉ, thần kinh thiệt, thần kinh thân và, sắc, thinh, khí, vị, xúc, những điều đó đều do nghiệp chi phối.

Mình học Phật, phải chiêm nghiệm và lâu ngày mới thấy. Những người có phước đi đâu cũng thấy những điều tốt lành, người không có phước đi đâu cũng thấy chuyện buồn phiền.  Thí dụ, có người vào trong chùa nhìn thấy tượng Phật họ hoan hỉ, thấy tháp xá lợi họ hoan hỉ, thấy hồ sen họ hoan hỉ. Nhưng có những người vô chùa chỉ nhìn thấy những chuyện  không hoan hỉ, nhìn chỗ này có rác nhiều, chỗ kia dơ nhiều, chỗ nọ bực bội nhiều. Là do nghiệp chiêu cảm, cũng đi vào trong chùa có người nhìn thấy toàn chuyện tốt có người thấy toàn chuyện không tốt là do nghiệp chiêu cảm. Hay là mình ở căn nhà có người đến chơi nói "ở nhà này thoải mái quá", nhưng có người lại nói "ở căn nhà này thấy sợ ma quá" hay "cái nhà quạnh quẽ quá" v.v.... thì cũng một căn nhà mà người có phước thấy khác, người không có phước thấy khác, hoặc giả, đi ra ngoài đường cũng vậy, có nhiều người đi đến đâu họ ngó thấy chỗ này trồng cây đẹp, chỗ kia có bồn hoa đẹp nhìn thấy hoan hỉ, nhưng có người đi nhìn thấy rất ơ hờ. Chúng ta phải nói có một sự tác động của nghiệp. 

Bởi vì căn và cảnh đều do nghiệp nên, nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, là tâm quả, là kết quả của nghiệp. Do vậy, tâm ngũ quan đều là những tâm quả, những tâm quả này được tạo thành do nghiệp. Bởi vì do nghiệp nên mỗi một thứ có một cặp là quả bất thiện và quả thiện. 

Ví dụ:

- Nhãn thức quả bất thiện và nhãn thức quả thiện.

- Nhĩ thức quả bất thiện và nhĩ thức quả thiện.

- Tỉ thức quả bất thiện và tỉ thức quả thiện.

- Thiệt thức quả bất thiện và thiệt thức quả thiện.

- Thân thức quả bất thiện và thân thức quả thiện.

 Chúng ta nhớ tâm ngũ quan là những tâm quả. Tâm quả là gì? Tâm quả là những tâm tạo ra bởi nghiệp quá khứ. 

Qúi vị hỏi: tại sao những tâm quả là trạng thái tâm có một sát na và chỉ nhận cảnh và có tánh cách muội lượt, nhưng tại sao là tâm quả?

Muốn biết chuyện đó chúng ta phải xoáy vào một điểm là căn và cảnh đều sanh khởi do nghiệp, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, thần kinh nhãn, thần kinh nhĩ, thần kinh tỉ, thần kinh thiệt, thần kinh thân, những gì sanh khởi do nghiệp và cảnh cũng do nghiệp.

3. Yếu tố thứ 3: Môi trường hay hoàn cảnh

Nói đến cảnh sắc thì phải có ánh sáng, không có ánh sáng không thấy được cảnh sắc. 

Về điểm này, ngày xưa khi chưa hiểu biết về khoa học chúng ta vẫn hiểu một cách đơn giản là trời tối thì không thấy, khi có đèn thì mình thấy, nhưng bây giờ khi khoa học cho chúng ta hiểu ánh sáng đi, và ánh sáng là đơn vị dùng để đo thời gian, thí dụ, một năm ánh sáng, hai năm ánh sáng. Không ánh sáng thì chúng ta không thấy được những tinh cầu lấp lánh ở xa xôi. Thí dụ, có những tinh cầu cách chúng ta triệu năm ánh sáng, khi chúng ta thấy được  sự bùng vỡ của tinh cầu đó thì giây phút chúng ta thấy sự bùng vỡ đó thật ra  đã xảy ra cách đây một triệu năm, nếu tinh cầu đó cách chúng ta một triệu năm ánh sáng, khi chúng ta thấy được tinh cầu bùng vỡ đó thật ra nó đã xảy ra lâu rồi, nhưng vì ánh sáng mất rất nhiều thời gian để đi đến đây. Chúng ta thấy được bất cứ cái gì từ ánh sáng. Những viễn vọng kính như viễn vọng kính Hubble, viễn vọng kính Chandra, giúp chúng ta thấy được một cái gì đó không phải ánh sáng bằng mắt của chúng ta mà thấy qua tia cực tím gọi là ultraviolet, hoặc người ta chụp hình phổi hay chụp hình xương để biết xương gãy họ dùng tia X-ray, hồi xưa gọi là quang tuyến X  hay ultraviolet tia cực tím. 

Dù X-ray, hay ultraviolet hay ánh sáng bằng mắt chúng ta có thể nhìn thấy được, thì không có ánh sáng không có thị giác, đơn thuần như vậy, con mắt thấy được nhờ có ánh sáng. 

Hoặc giả, nói về thính giác, thính giác cần có khoảng trống, nếu qúi vị vào phòng thâu radio, một studio, phòng thâu âm là một phòng được tạo bởi một số vật liệu cách âm, để âm thanh không ra bên ngoài, khi người ta thâu âm thanh của mình ở bên ngoài không nghe được, tường cách âm ngăn chặng khoảng trống giữa người ở trong phòng và người ngoài phòng. Như vậy mình muốn nghe thì phải có khoảng trống, nó phải thông không có ngăn ngại, khi đã có tường cách âm rồi thì không nghe được. Do vậy, thính giác cần có khoảng trống như thị giác cần ánh sáng vậy.

Khứu giác phải có gió, sự vận chuyển của khí, thí dụ, qúi vị nấu thức ăn trong bếp bị khét và mùi khét không bốc bay vào trong phòng ngủ, mình ngồi trong phòng ngủ không biết đồ nấu ăn bị khét. Đối với cảnh khí các mùi, dù mùi thơm, mùi thối đều cần có sự luân chuyển gọi là gió. Gió ở đây chỉ cho sự bay từ chỗ này sang chỗ khác đưa mùi đi chúng ta mới có thể ngửi được.

Lưỡi nếm cảnh vị, vị giác cần một môi trường là nước và độ ẩm, nước chuyên chở cho vị. Ví dụ như nước bọt, hay tất cả thực phẩm tiếp xúc vị giác thần kinh thiệt luôn luôn cần có nước, khi lưỡi bị khô quá mình nghe đau, cái đau của lưỡi, cái khô của lưỡi thuộc xúc giác, nhưng vị giác cần có nước cần có độ ẩm là chất loãng để có thể tiếp xúc với vị giác.

Riêng về xúc giác, môi trường môi giới phức tạp hơn nhiều, cần một sự thô phù, cứng của đất, cần đến nhiệt lượng nóng và lạnh, và cần đến sự di chuyển của, đất, lửa, gió, nước. Khi có dịp học qua sắc pháp chúng ta học thêm về cảnh xúc.

4. Yếu tố thứ tư là sự chú ý.

 Ngoài yếu tố của giới, căn là một, cảnh là hai, môi giới là ba, thì chúng ta có yếu tố thứ tư là sự chú ý, không có chú ý thì không có nghe, lấy một ví dụ, một người ngồi thiền, tâm tập trung vào thiền có khi trời sấm sét cũng không nghe tại vì quá tập trung vào thiền không để ý đến âm thanh, mặc dù  âm thanh sấm sét có đập vào tai. Hay là có những nguời ngồi mải mê coi phim do tập trung vào phim quá nồi nước nấu sôi kêu rít lên vì sôi mà họ không nghe. Tức là cảnh hiện ra nhưng lúc đó đang bận tâm chuyện gì mình không để ý, hay là thỉnh thoảng có người chìa khóa ngay trước mặt nhưng vì tâm đang bận suy nghĩ chuyện gì họ không thấy chìa khóa, không phải con mắt không có khả năng thấy nhưng thiếu sự chú ý.

Chúng tôi nhớ một chuyện, có hai vợ chồng mới mua một cái máy hiệu Akai để thu âm, nhờ một người Phật tử đến chùa Kỳ Viên để thâu bài giảng, khi đem về vị này mở ra để nghe một bài pháp rất hay, máy lại là máy mới, vị này tập trung nghe pháp rất hoan hỉ, buổi sáng hôm sau thức dậy thấy trong góc nhà mình cây qùynh hoa tối qua nở mười mấy hoa, thường thường quỳnh hoa nở vào buổi tối và khi nở thì có mùi hương, nhưng vị này nói kỳ lạ hồi tối qua mình cũng ngồi trong phòng khách nghe pháp nhưng sao không thấy hoa quỳnh nở mà cũng không nghe mùi thơm, thì bà vợ nói "tại anh cứ lo nghe pháp mê quá nên không để ý đến hoa nở". Ý chúng tôi muốn nói tại đây, khi một người tập trung vào cái gì quá thì gần như không chú ý đến cảnh khác, cho dù chậu hoa quỳnh nở ở trong phòng họ cũng không để ý, việc đó là việc bình thường. Thành ra chúng ta nhớ rằng ở trong những tâm như, nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, rất cần yếu tố chú ý.

Sau khi chúng ta nói về 4 hiện tượng này, chúng ta phải nói đến 3 khía cạnh đã được nói trong bài trước và nhờ vào những điều hôm nay chúng ta hiểu rõ 3 khía cạnh đó. 

1. Khía cạnh thứ nhất, sau khi nói những điều này chúng ta thấy rõ rằng ngũ quan chi phối bởi nghiệp quá khứ. Bởi vì ngũ quan lệ thuộc vào ngũ căn và các cảnh ở bên ngoài, cũng do nghiệp quá khứ chi phối, đó là đầu tiên.

2. Thứ hai, ngũ quan biết cảnh, sắc, thinh, khí, vị, xúc, là biết một cách trực tiếp, thí dụ:

- nhĩ thức gọi là thính giác thì nó cần phải có nhĩ căn, 

- phải có cảnh thinh, 

- và phải có khoảng trống để cho âm thanh đi vào thị giác. 

- và sự chú ý. 

Thì 4 yếu tố này đều có tánh cách trực tiếp chứ không phải là chuyện đã từng trải qua rồi giờ nhớ lại, hay là chuyện suy diễn, chuyện tô hồng chuốt lục, mà nó là một cái gì rất trực tiếp.

 Do trực tiếp thành ra chúng tôi dùng chữ "nguyên sơ",  trong Anh ngữ là raw material (nguyên liệu thô) là những dữ kiện chưa được qua quá trình nhồi nặn, tức là cái gì đó mình nhận vào trong hình thức uyên nguyên nhất, gọi là nguyên chất, chưa có thẩm định, chưa có xử lý, chưa có phản ứng. Ví dụ như mình thấy những dạng theo kỷ hà học là, vuông, tròn, xanh, vàng, đỏ, trắng, đó là chúng ta nói uyên nguyên. 

3. Thứ ba, cảnh pháp. Khi nhìn thấy những đường nét màu sắc, mình có cảm giác màu tím là màu lãng mạn, hay màu xanh là màu hi vọng, thì chuyện màu xanh màu hi vọng, màu tím lãng mạn  nó đã qua quá trình xử lý của mình, lúc đó không còn uyên nguyên nữa, tại vì màu tím có lãng mạn hay không là do chính mình dựa vào thói quen, dựa vào văn hóa. Hoặc, nhìn thấy 2 con thiên nga bơi lội trên hồ một cách lãng mạn, thì nhìn thấy 2 con thiên nga là thị giác, nhưng, thị giác không đóng vai trò nhận con thiên nga là lãng mạn, thị giác chỉ thấy có một vật thể như vậy di động như vậy, còn chuyện con thiên nga là con thiên nga, và con thiên nga lãng mạn thuộc về ý thức. Điểm này chúng ta sẽ đi qua ý thức về xử lý, chúng ta sẽ đi sâu vào.

 Chúng ta nên phân biệt đó là, thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, hay là, thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác, là biết cảnh sơ khởi, cảnh uyên nguyên, chưa có nhồi nặn, chưa có tô hồng, chuốt lục, vẽ rắn thêm chân. đó là cái chúng ta hiểu tại sao nói ngũ song thức là tâm tương đối rất muội lượt.

Ngữ và nghĩa.

Trong Thắng Pháp nhắc nhiều về cụm từ "Cảnh ngũ quá khứ". 

Cảnh ngũ là 5 cảnh, ngũ là 5, 

5 cảnh ở trong quá khứ.

Trong Thắng Pháp cảnh ngũ là, sắc, thinh, khí, vị, xúc, 

Và cảnh ngũ quá khứ là, sắc, khinh, khí, vị, xúc, của cái đã qua.

Thì cảnh ngũ quá khứ này thuộc về cảnh pháp, không phải thuộc về cảnh ngũ nữa. 

Lấy ví dụ, sáng nay có một người cho chúng tôi một ly cafê, bây giờ đang nói chuyện với qúi vị tự nhiên chúng tôi nhớ ly cafe đó rất ngon. Thì mùi vị cafe ngon đó bây giờ chúng tôi nghĩ đến nó là một hồi ức, mặc dầu hồi ức trong rất ngắn, nhưng mùi vị cafe đã qua rồi, bây giờ chúng tôi nghĩ mùi vị thì nó thuộc về cảnh pháp, chứ nó không thuộc về cảnh khí, không thuộc về cảnh vị nữa. 

Thành ra, đa phần những gì chúng ta xử lý đối với 5 cảnh, lúc đó 5 cảnh đó không còn là, sắc, thinh, khí, vị, xúc, nữa mà nó thuộc về cảnh ngũ quá khứ, và cảnh ngũ quá khứ đó được liệt kê vào cảnh pháp ở trong 6 cảnh. Chúng ta nghe nói, sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp, và pháp này là nó ngoài sự trừu tượng, ngoài những cảnh nơi chúng ta suy tư không thuộc giác quan, nó còn gói ghém trong đó những cảnh, sắc, thinh, khí, vị, xúc, đã qua. 

Thì như vậy, tất cả những xử lý của chúng ta đối với những cảnh hiện vào ở trên thực tế nó không phải là cảnh chúng ta biết trực tiếp, biết cảnh đó là ấn tượng còn lưu lại trong tâm, và tâm xử lý là tâm xử lý javana là tâm có phản ứng đối với cảnh. 

Vì vậy, khi học Thắng Pháp Abhidhamma, chúng tôi nói như vầy là, nói thì phải nói cho chính xác chứ không nên nói nhập nhằng. Trong phương diện văn học, triết học, chúng ta nói sao cũng được. Nhưng, Thắng Pháp đòi hỏi độ tinh sát. Tại sao phải phân biệt, cũng cảnh sắc mà cảnh sắc hiện tại và cảnh sắc quá khứ, tại vì cảnh sắc hiện tại là cảnh của thị giác, cảnh sắc của quá khứ không còn là cảnh sắc nữa mà nó là cảnh pháp. Về điều này đi càng xa thì càng quan trọng, đi càng xa càng có những ý nghĩa chúng ta cần phải phân biệt.

Nên cẩn thận.

 Chúng ta nên cẩn thận,

- Nhãn vật hay nhãn căn không đơn thuần là con mắt.

- Nhĩ vật, nhĩ căn, không đơn thuần là tai. 

- Về lưỡi như là thiệt căn là thần kinh thiệt.

 Trong lưỡi chúng ta thấy có những hột rất nhỏ thì những hột nhỏ đó là thần kinh thiệt, hay là thiệt căn, chứ không phải nguyên cái lưỡi của chúng ta. Khi lưỡi chúng ta bị lở hay bị đẹn nổi mục thì cái đẹn đó làm lưỡi bị đau thì không thuộc về cảnh thiệt mà thuộc về cảnh xúc. Còn thần kinh thiệt chỉ bắt cảnh vị thôi, tức là những thần kinh như đầu lông con nhím là những mục nhỏ ở trên lưỡi mình nó có thể phân biệt đây là vị ngọt, đây là chua, đây là vị đắng, gọi là thần kinh thiệt, chúng ta nên để ý. 

Trong tiếng Anh con mắt là eye, nhưng thần kinh nhãn, hay thần kinh thị giác gọi là optic nerve, hay là, auditory nerve là thần kinh thính giác. Thần kinh nhãn không phải nằm ở trong con mắt, nhưng con mắt không hẳn là thần kinh nhãn, cái này là cái chúng ta rất là cẩn thận khi học vào điểm này.

Kết Luận:

Những điều chúng tôi mong mọi người cùng nhớ, ngũ quan, hay tâm ngũ quan, trong Thắng Pháp Abhidhamma gọi là ngũ song thức, tương đối muội lượt nhưng là một sự thể hiện rất lớn của nghiệp quá khứ. Một người sanh ra đời, không bao giờ thấy được những sắc đẹp, ít khi nghe được tiếng hay, ít khi ngửi được mùi thơm, ít khi lưỡi nếm vị ngon, ít khi thân xúc lạc, như vậy do nghiệp nặng trong quá khứ. 

Khi hiểu được điều này, chúng ta sẽ nhận ra những gì đa số có được ngày nay do chúng ta rất có phước. Nhưng nói như vầy thì khó tin, ngay cả có nhiều người sống ở Mỹ, đi ra ngoài có xe, chưa bao giờ lo chạy cơm chạy gạo từng bữa, ăn thì thích cái gì ăn được cái đó, nhưng cũng không thấy mình có phước. Một cảm nhận rất đơn giản, buổi sáng chạy lên một con đường không gồ ghề, đường thênh thang rộng, mặt trời lên cao, hai bên đường có những thảm cỏ xen lẫn hoa dại rất đẹp, chúng ta rất vô tình, ít có bao giờ chúng ta ý thức cảm giác lái xe một cách êm ái trên một con đường tốt đó là một cảnh xúc quả thiện, chúng ta rất có phước. 

Khi chúng tôi đi hành hương, đi qua những chặng đường dễ sợ, người ta không nói ổ gà mà là ổ voi, không phải một ổ voi mà trên một đoạn đường dài rất nhiều, khi xe lái qua ổ voi thì nó không dằn mà là nó sụp một cái rất mạnh, ngồi trong xe bị tung lên rồi rơi xuống, lắc qua lắc lại như đưa võng. Và có lần chúng tôi đi với Sư Nguyên Thông qua Ấn Độ, trong một thành phố trời nóng, không có chỗ nào để trốn, đi đâu cũng nóng và dơ, đến đỗi đi tìm một chỗ để ăn không dễ, chỗ nào cũng thấy dơ. Thì bấy giờ chúng ta mới thấy, sắc, thinh, khí, vị, xúc, mình đang có ở một nơi nào đó là mình có phước. Không phải là mình thấy được cảnh đẹp, mình nghe được tiếng hay, mình ngửi được mùi thơm, lưỡi nếm vị ngon, thân xúc lạc, chỉ là chuyện tình cờ, nói về ngôn ngữ Phật Pháp là mình có phước, nếu chúng ta không biết điều đó thì chúng ta sẽ có vấn đề, vì chúng ta không ý thức được là mình có phước dường nào.

Một khía cạnh khác của bài học hôm nay, mặc dầu 5 thức này biết cảnh là sơ khai nhưng nó biết cảnh rất trung thực, vì con mắt tiếp xúc với cảnh sắc  chưa qua giai đoạn thẩm định, nhồi nặn, xử lý, do đó cảnh rất uyên nguyên, nên ở đây, nhiều khi chính chúng ta tận dụng những điều này sẽ bớt đi những ý nghĩ vẩn vơ, những ý nghĩ chủ quan.

Một hành giả tu tập Tứ Niệm Xứ, chỉ theo dõi hơi thở ra vào. Theo dõi hơi thở thuộc về xúc giác là do hơi gió qua mũi, mình cảm nhận được hơi thở ra vào thuộc về xúc giác, thì xúc giác là một cảnh ở trong tình trạng nguyên chất, nó như vậy, hơi thở vô biết hơi thở vô, hơi thở ra biết hơi thở ra, bàn chân nhấc lên, đưa tới, đặt xuống, dở, bước, đạp, chúng ta biết rõ. Những cái biết về thân, thọ, tâm, trong Tứ Niệm Xứ, chúng ta chưa nói đến pháp, là biết cảnh ở trong trạng thái uyên nguyên nhất, chưa có ý kiến.

Đó là một cảnh dạng rất nguyên sơ và càng sống với cảnh như vậy tâm của chúng ta càng ít chủ quan, ít vẽ vời, chúng ta ít sống với định kiến, và chúng ta cảm nhận nhiều ở trong đời sống. Tại sao người Âu Châu rất quan trọng đi nghỉ hè, tại vì khi đi nghỉ hè đến một vùng đất lạ, tâm của chúng ta bớt đi thái độ chủ quan phải thế này phải thế kia, do vùng đất xa lạ chúng ta thấy nhiều hơn, nghe nhiều hơn, chúng ta chịu thấy, chịu lắng nghe, hơn là lúc nào cũng bày tỏ ý tưởng chủ quan của mình, 

Về điểm này, tương đối có một giá trị đặc biệt, ý chúng tôi muốn nói như vầy, một khi ngũ căn tiếp xúc với 5 cảnh thì cảnh đó trong Thắng Pháp gọi là cảnh chân đế, hay cảnh thực tính, pháp thực tính. Cảnh pháp thực tính ở đây, cảnh đó không phải do vẽ vời mà ra . 

Ví dụ, chúng tôi ngồi ở đây, trong một căn phòng, đọc một bài thơ, chúng tôi cảm nhận bài thơ đó, hay, dở, đẹp, không đẹp, thì đó là ý tưởng chủ quan. Nhưng, nếu chúng tôi lên chánh điện, ngồi bên bàn thờ Phật, nhìn hơi thở ra hơi thở vào, thì hơi thở đó là cảnh xúc, đó là cảnh chân đế, của pháp thực tính. Hoặc giả là, chúng tôi đi bộ, vừa đi vừa ý thức được bước chân của mình đang đi thế nào, đi có vững hay không, mình sẽ đến điểm nào, rồi điểm nào quay lại, sự ý thức trọn vẹn về chung quanh đưa chúng ta trở về pháp thực tướng, và tâm của chúng ta khách quan nhiều hơn là chủ quan. 

Vì vậy, mình nói như vầy, mình trưởng thành, mình học nhiều, và mình có nhiều tài nghệ như, giỏi, làm thơ hay, viết nhạc hay, mình là một nhà văn hóa có tiếng, một nhà chính trị lỗi lạc, mới nghe thì hay, nhưng đa số những vai trò dù là, chính trị gia hay nhà văn hóa hay nhà thơ v.v... nó là một cuộc sống chủ quan, mình đã xử dụng một số những gì của cuộc sống để  nhồi nặn nó trở thành ý tưởng, bởi vì một nhà thơ thì thế giới này chỗ nào cũng thơ, ánh nắng xuyên qua lá cũng thơ, rồi mưa xuống cũng thơ, trời lạnh của mùa thu cũng thơ. Một nhà chính trị nhìn thấy ở đâu cũng chính trị. Một thương gia nhìn thấy ở đâu cũng là chuyện làm ăn buôn bán.

Nhưng, với một người tận dụng được 5 cảnh, sắc, thinh, khí, vị, xúc, trong hình thái nguyên sơ nhất, chưa nhồi nặn, người đó có thể tu được. 

Tại vì mình nghĩ, sắc, thinh, khí, vị, xúc, là cái gì gọi là dục trưởng dưỡng. Còn những gì thuộc về đời sống nội tại, đời sống tinh thần thì là đời sống tu. Nhưng mà kỳ thật, chúng ta suy tưởng chủ quan nhiều, bởi vậy trong  cách tu thiền chỉ hay thiền quán thường dùng hai thứ rất phổ thông đó là, thị giác và xúc giác. Tại vì xúc giác là hơi thở lúc nào cũng có và thị giác gìống như dùng những hình ảnh cảnh tượng của tử thi, cảnh tượng của màu sắc như, xanh, vàng, đỏ, trắng, hay là, đất, nước, lửa, gió v.v... là cảnh tượng.

Thì ở đây, chúng tôi muốn nói, tuy biết ngũ quan mới nghe như một vết thương, như một chỗ nhược, chỗ phiền não sanh khởi. Chuyện đó không phải là sai. Nhưng từ chỗ đó người tu tập lại tận dụng được. Còn đi vào thế giới miên man, tâm tưởng miên man, tư duy trong lòng, nghe như đó là đời sống tinh thần, nhưng kỳ thật đó là chủ quan. 

Bởi vậy có nhiều vị nói, "mấy ông thầy tu coi vậy chứ rất chủ quan". Chuyện đó đúng, tại vì mình học một hệ thống giáo điển, mình đưa ra những quan điểm lý luận về tôn giáo, trong thế giới của suy tư chủ quan lắm. Còn một bác nông dân cày sâu cuốc bẩm chỉ biết, đến khi nào mưa, khi nào nắng, khi nào cày ruộng, khi nào cấy ruộng, đôi khi tâm tư lại khách quan, lại trung thực, lại ít cực đoan hơn thầy tu. Chúng tôi xin lỗi là ở đây, chúng tôi trên quan điểm này không phải là chúng tôi chê mấy ông thầy tu, vì chúng tôi cũng là tu sĩ, chúng tôi không có chê, nhưng phải nói đối với những người làm về tôn giáo, về văn hoá, về chính trị, tâm của họ rất chủ quan, tại vì trải qua một tiến trình nhồi nặn.

Nhưng với những người tu thiền, nhất là tu về thiền quán, tu Tứ Niệm Xứ, càng tu tập thì càng bớt đi những thái độ, suy diễn, tô hồng chuốt lục, vẽ rắn thêm chân, nghĩ thế giới này là thế này, thế giới kia là thế khác, mà chỉ biết hơi thở vô biết hơi thở vô, hơi thở ra biết hơi thở ra, hơi thở vô dài biết hơi thở vô dài, hơi thở ra dài biết hơi thở ra dài, hơi thở vô ngắn biết hơi thở vô ngắn, hơi thở ra ngắn biết hơi thở ra ngắn. 

Nhiều người nghĩ, mình tu là mình hướng về đời sống nội tâm không để ý đến, sắc, thinh, khí, vị, xúc, không phải như vậy, mới nghe thì có lý nhưng trên thực tế không đúng như vậy. Người tu tập là người vẫn sống với, sắc, thinh, khí, vị, xúc, nhưng sống ở trong ý nghĩa, nó như thế nào biết như thế đó, nó sanh biết nó sanh, nó diệt biết nó diệt. Người sống gói ghém nội tại quá, họ miên man quá, đôi khi ở trong một sự rút lui về nội tại nó lại tạo ra một thế giới chủ quan rất là cực đoan, về điểm này chúng ta nên cẩn thận../.

Chú thích:

Khi học về Thắng Pháp Abhidhamma, một bài học nói về ngũ quan không có nghĩa chúng ta sẽ hiểu hết về ngũ quan, chúng ta phải học những tâm tiếp theo như khán ngũ môn, khán ý môn, tâm tiếp thu, quan sát tâm xử lý thế nào v.v... thì bài học hôm nay sẽ rõ hơn, đó là điều lạ của môn Thắng Pháp.


No comments:

Post a Comment