Saturday, August 22, 2020

Thắng Pháp Abhidhamma - Bài 8. Tục đế

 Thắng Pháp Abhidhamma

Bài 8. Tục đế


Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng: Có một điểm rất thú vị ở trong đạo Phật, trong Phật giáo Bắc Truyền có một câu "Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền", nhưng, dù bất lập văn tự, vẫn có rất nhiều tác phẩm lớn, thí dụ như, Bích Nham Lục, Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất, có không ít những mô tả, những minh họa bằng ngôn ngữ.

  Khi chúng ta đi vào Thắng Pháp Abhidhamma, đôi khi chúng ta nghĩ Tục Đế là cái gì nghiêng về ngôn từ và, cái gì thuộc về Đệ Nhất Nghĩa Đế vượt qua những qui ước về ngôn từ.

Nhưng, khi chúng ta học Thắng Pháp Abhidhamma, có nhiều người gọi đó là một rừng ngôn ngữ. Thật ra, Thắng Pháp Abhidhamma không nhất thiết chỉ nói về Chân Đế, mặc dù nhiều người quan niệm Thắng Pháp Abhidhamma đặc biệt nói về Siêu Lý hay nói về Chân Đế. Nhưng kỳ thật, môn này là một môn quan trọng của Phật Học có những hướng dẫn rất quan trọng khi chúng ta đề cập đến, ngôn ngữ, từ vựng, cách biểu đạt, nói cách khác là về phương diện Tục Đế.

Chúng tôi hồi còn nhỏ, nhiều lúc học Thắng Pháp Abhidhamma có cảm tưởng như phần Tục Đế chỉ được nói qua loa, nói một cách rất ngắn gọn ở trong một bài học và, đôi khi nhiều người học bị quên bẳng đi phần này bởi vì nghĩ không quan trọng như bốn pháp Chân Đế. Nhưng kỳ thực thì, cách Thắng Pháp Abhidhamma đề cập đến Tục Đế, từ đó tạo nên một sự tương phản khi chúng ta nói về Chân Đế, một ở trong những lãnh vực có thể nói  rất tế nhị và hết sức hữu dụng cho bất cứ ai học Phật Pháp.

Tục Đế là: Đế là sự thật, Tục là thường thức, thì Tục Đế là sự thật theo thường thức. 

Khi nói đến những sự thật theo thường thức là cái gì chúng ta sống với, chúng ta xử dụng hàng ngày, ngay cả như hôm nay TT Tuệ Siêu và chúng tôi vừa gửi đến qúi vị một số ý nghĩa thì ý nghĩa bất cứ điều gì cũng phải xử dụng đến một thứ gọi là ngôn ngữ, không có ngôn ngữ thì chúng ta sẽ gặp trở ngại lớn để hiểu được điều gì đó. 

Trong phần "nên cẩn thận" chúng tôi có đề cập đến một ý nghĩa của bài kinh rất nổi tiếng của kinh điển Phật Giáo đó là "Kinh Tây Ngưu Một Sừng". Trong bài kinh Tây Ngưu nói về hình ảnh Chư Phật Độc Giác, một bài kinh rất đẹp, trong Sớ Giải của Kinh Tê Ngưu đưa ra một hình ảnh Chư Phật Độc Giác là những vị rất thù diệu về phương diện các bậc Thinh Văn không thể so được đó là, tự giác ngộ không cần qua sự khai thị. 

Tự mình giác ngộ là một thành tựu rất lớn trong con đường dẫn đến giác ngộ giải thoát. Nhưng, ngoài chuyện tự mình giác ngộ không cần sự khai thị như Chư Phật Toàn Giác thì, ở một phương diện khác vị Phật Độc Giác không đủ ngôn ngữ và khả năng để diễn đạt những gì mình đã ngộ, giống như Phật Toàn Giác, như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật Bổn Sư của chúng ta, khi diễn đạt những gì mình thấy biết là một chuyện hoàn toàn khác.

 Chúng tôi lấy một ví dụ, cũng thời đến thăm một nơi nào đó, thành phố Vancouver của Canada chẳng hạn, một thành phố đẹp khi trở về nhà,  có những người có thể mô tả lại cho chúng ta một số khái niệm về, địa hình, đồi núi, sông hồ, ngôn ngữ, văn hóa, sinh hoạt, những xuất sắc của thành phố Vancouver. Nếu những người khác có hỏi nhiều lắm thì nói thành phố rất đẹp, tôi rất thích, chớ không thể diễn tả được gì. Sự khác biệt là một người có khả năng có ngôn ngữ để diễn đạt và, một người không đủ khả năng không đủ ngôn ngữ để diễn đạt, hai điều đó khác nhau. 

Trong Sớ Giải của Kinh Tê Ngưu có dùng một thí dụ đó là, Chư Phật Độc Giác như một người câm nằm chiêm bao, ở trong giấc mộng thấy nhiều điều rất thú vị nhưng bởi vì câm thành ra không thể diễn tả được. Chữ câm ở đây chúng ta nên hiểu ở trong ý nghĩa bất khả thuyết,  ý nói khi bậc Độc Giác các Ngài có những cái thấy, cái biết, sự liễu ngộ rất sâu kín, tế nhị. Nhưng để diễn đạt, để minh họa và để thiết lập ngôi nhà giáo pháp thì đó là một chuyện hoàn toàn khác. 

Thí dụ này, cho chúng ta thấy điều quan trọng của ngôn ngữ, quan trọng của phương tiện truyền đạt, ngày hôm nay chúng ta gọi là truyền thông. Phương tiện truyền đạt đó gọi là Tục Đế. Mặc dù, ngôn ngữ là một phương tiện diệu dụng giúp chúng ta rất nhiều, nhưng, chúng ta nên hiểu tánh tương đối chứ không nên hiểu tánh cách tuyệt đối.

 Sự tương đối của ngôn ngữ và tánh cách chủ quan của ngôn ngữ là điều dễ dẫn chúng ta đến ngộ nhận, đến những lầm lẫn nếu chúng ta không khéo.

Trong một bài kinh tụng về vô thường, khổ não, vô ngã có một câu rất thú vị là "Nghe lầm, ắt nói lại lầm". Một người nghe lầm họ nói lại thì càng lầm, nhưng có nhiều khi nghe đúng mình lập lại cũng lầm nữa, ngôn ngữ rất nguy hiểm bởi vì nó có tánh cách tương đối, phải hết sức cẩn thận.

Trong truyện Kiều, cụ Nguyễn Du có viết: "Đã mang lấy nghiệp vào thân. Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa". Một thí dụ khác, một người phụ nữ lấy chồng gặp mẹ chồng cay nghiệt thì nói "không biết cô đó bị nghiệp gì mà gặp bà mẹ chồng làm khổ quá". Nhưng, nếu một người rất thành công giàu có, ít ai nói rằng: "Người kia không biết do nghiệp gì mà thành công".  Ở trong ngôn ngữ tiếng Việt thường hiểu nghiệp là xấu, không hẳn như vậy, nghiệp thì có nghiệp tốt nghiệp xấu, đồng ý, những gì thấy trong đời sống có cả hai, tốt và xấu, vui và buồn, nhưng tất cả đều do nghiệp hoặc là nghiệp thiện, hoặc là nghiệp bất thiện.

Thì ở đây, cách dùng chữ nghiệp có tánh cách tương đối, về điểm này chúng ta đặc biệt cẩn thận. 

Trên phương diện Tục Đế được phân chia thì Thắng Pháp chia làm hai, một phần là định danh, một phần là diễn nghĩa.

Định danh 

Định danh là cách đặt tên. Trong ngôn ngữ mới nghe như có luật, nhưng thật sự không có luật lệ gì hết, chỉ đơn thuần tình cờ người ta làm thôi, rồi người sau có thể bắt chước theo. Ví dụ, những bậc tiền nhân đi trước dịch thuật từ chữ Phạn sang chữ Hán chúng ta thừa kế sau này có nhiều cách dịch rất lạ. Chẳng hạn dịch tên người, như vua Tịnh Phạn dịch từ chữ Suddhodana, Suddho dịch là Tịnh, danna dịch là Phạn. Có những chữ nửa âm nửa dịch, thí dụ, Sariputta, Sari thì âm là Xá Lợi, putta âm là tử, thành tên Ngài Xá Lợi Phất nửa âm nửa dịch. Có những thứ hoàn toàn âm, thí dụ Ngài Ananda âm là Anan chứ không dịch, còn có những chữ hoàn toàn dịch. 

Bây giờ hỏi, trường hợp nào nên âm, trường hợp nào nên dịch, điều này thì chịu, tại vì gọi theo thói quen, không có một luật định nào, thí dụ, Vua Tịnh Phạn, Hoàng Hậu Maya, thì Tịnh Phạn hoàn toàn là chữ dịch, Maya thì hoàn toàn là âm.

Cách định danh trong cuộc sống cũng tương tự như vậy. Chúng tôi lấy ví dụ đặt tên các loại bánh. Dĩ nhiên, mình nghĩ tên có ý nghĩa nào đó, thí dụ bánh xèo, tại vì chiên nghe xèo xèo. Người miền Trung có bánh khoái, người ta nói chữ khoái từ chữ khói mà ra, tại vì mỗi lần chiên bánh thì khói nhiều và họ đổi thành bánh khoái. Ngày Tết chúng ta có bánh tét, có nhiều người hiểu bánh tét là lấy sợi giây tét ra, nhưng chúng tôi nghĩ do chữ Tết họ đọc ra chữ tét thì đúng hơn. Rồi chúng ta có bánh da lợn hay bánh quai chèo, bánh quai chèo thì giống như cái quai chèo, bánh da lợn thì giống da heo vì có nhiều lớp. Nhưng, có những thứ bánh không có ý nghĩa gì hết như bánh bò, chúng tôi không biết chữ bò đó chỉ con bò hay động từ bò, bánh bò không liên quan gì đến cái bánh hết. Hay là bánh ít, bánh nậm không biết nghĩa là gì, đôi khi đặt tên có nghĩa, có khi đặt tên vô nghĩa.

Trong định danh luôn luôn có pháp có thực tính, hoặc pháp không có thực tính.

 Trong ngôn ngữ Phật học có những pháp thực tính như là, tâm, sắc pháp, Niết-bàn, hay hoặc giả là, năm uẩn, xứ, giới đế, những pháp đó là những pháp có thực tính.

 Nhưng, cũng có các từ vựng hoàn toàn phi thực tính. Thí dụ, trọc phú, tiểu thư, một hiệp sĩ, tại sao phi thực tính? Về điều này, Ngài Na-Tiên (Nàgasena) đưa một ví dụ gọi về long xa là xe vua, nhưng khi tháo rời từng bộ phận, khung xe, rồi bánh xe, rồi mui xe, những bộ phận khác tháo rời ra thì không có cái nào trong đó là long xa hết, long xa chỉ là một sự kết hợp lại của nhiều cơ phận, và cũng những cơ phận đó được dùng cho nhà vua thì gọi là long xa. Ngày hôm nay, người ta muốn đặt tên cách nào thì đặt, đôi khi họ đặt là xe vua mà không nhất thiết ông vua dùng nó, thí dụ, họ gọi vua xe hơi thì  vua đó chỉ là một cách giả định phi thực tính. 

Hai phương diện này, pháp có thực tính và pháp phi thực tính chúng ta gọi là hữu thực và vô thực.

Đôi khi có những từ ghép, do có những từ ghép này tạo nên bốn trường hợp sau: 

- Hữu thực vô thực: hữu thực là danh từ chỉ pháp thực tính, vô thực là danh từ phi thực tính, tạo thành danh từ kép như nói: tâm tôi, mùi thơm. 

Tâm là một thực tính, tôi là phi thực tính, là một ước lệ. 

Mùi thơm, mùi là một thực tính, thơm hay không thơm, hay là mùi hôi thì thơm và hôi là phi thực tính. Ví dụ, mình nói mùi sầu riêng, hay mùi nước mắm, gọi thơm hay hôi tùy theo mỗi người, thành ra nó là phi thực tính.

- Vô thực hữu thực: vô thực là không có thực tính, danh từ sau hữu thực có thực tính. Thí dụ, nhập Niết-bàn, nhập thì phải có cái gì mới nhâp được, Niết-bàn là một trạng thái không nhập không xuất. Hoặc giả, nói người tạo nghiệp, chỉ có tạo nghiệp không có người tạo nghiệp, chỉ có gặt quả chứ không có người gặt quả, đây là ý nghĩa rất tế nhị.

- Hữu thực hữu thực, danh từ trước và sau là danh từ kép đều chỉ pháp thực tính, thí dụ mình nói nhãn thức hay nói tâm thiện hay tâm bất thiện v.v... là danh từ kép mà cả hai đều chỉ pháp thực tính.

- Vô thực vô thực, trước và sau đều thuộc về pháp phi thuộc tính. Thí dụ xe sang hay người đẹp, chiếc xe, đôi khi chỉ là một danh từ có tánh cách ước lệ chung chung gọi là xe nhưng có thể sài được nhiều trường hợp khác nhau. Xe sang hay không sang tùy theo quan niệm của mỗi người, ví dụ, ở Mỹ đôi khi chúng ta thấy xe Mercedes, BMW sang trong, nhưng qua bên Âu Châu xe BMW, xe Mercedes dùng để làm xe taxi gọi là không sang trọng. Do vậy, sang trọng và không sang trọng là một khái niệm định đặt. Hay là, nói người, người là một danh từ giả lập, và đẹp hay xấu tùy theo mỗi người. Thời nhà Đường, Dương Qúi Phi được gọi là mỹ nhân là người phốt pháp, bây giờ, người ta nghĩ rằng một người tương đối hơi gầy thì mới là đẹp. Thì về ngành thẩm mỹ học, cái đẹp hay không đẹp tùy người, tùy theo xứ, tùy theo văn hóa, chứ không thể nói chữ đẹp là một khái niệm tuyệt đối. Thành ra khi chúng ta nói, xe sang, người đẹp, danh từ vô thực vô thực tức là trước và sau là từ kép mang tánh cách là giả lập.

Hàm nghĩa diễn nghĩa

Diễn nghĩa là một cách nói để định đặt một ý nghĩa nào đó, về phương diện này chúng ta phải đặc biệt hết sức cẩn thận bởi vì những ý nghĩa chúng ta nói mang tánh cách tương đối, có 7 trường hợp nói về sự diễn nghĩa này.

1 - Thứ nhất, qui ước về hình tướng

Thí dụ, nói biển rộng sông dài, hay con kinh rạch nước. Vị nào ở miền Nam thì biết khi nói về những hình tướng những khối nước người ta có nhiều tên đặt, thí dụ, sông thì có sông cái là sông rất lớn chẳng hạn. Kinh là do con người đào như kinh đào Suez ở trên lãnh thổ Ai Cập, hay kinh Sáng ở miền Nam VN chằng chịt. Có kinh, có lạch, có xẻo, rồi chúng ta có đầm, đìa, bưng, biền, ao, hồ, có vũng nước, mình đặt rất nhiều. Hỏi, cái lạch cái xẻo khác nhau thế nào, điều đó do người ta đặt ra, có nhiều khi con kinh lại lớn hơn con sông.

Ở Mỹ có những con đường được định đặt như hightway hay freeway, đôi khi freeway không lớn bằng hightway, mặc dầu, thường freeway rộng hơn hightway. Và chúng ta cũng nói đến một số ý nghĩa về hình tướng mang tánh cách tương đối như boulevard nghĩa là đại lộ, chẳng hạn, ngày xưa chúng tôi ở chùa Pháp Vân, nằm trên đại lộ Phillips Boulevard, nhưng đại lộ này lại nhỏ hơn (street) con đường gần đó. Thành ra, khi chúng ta định danh về phương diện hình tướng phải coi chừng vì nó có giá trị rất tương đối. 

Ở VN chúng ta có phái Cổ Sơn Môn, mới nghe tên thì tưởng là lâu đời. Thật ra phái Cổ Sơn Môn mới được thành lập thời Pháp. Trong lúc đó ở bên Nhật có phái Tân Tăng, nghe Tân Tăng là mới, một hình thức Tăng có gia đình nhưng đã được thành lập từ thế kỷ thứ 12. Nếu nói Tân Tăng mới hơn Cổ Sơn Môn thật sự không đúng.

Trong âm nhạc VN có hai giòng nhạc là tân nhạc và cổ nhạc. Tân nhạc ra đời trước Cổ nhạc. Tân nhạc là dòng nhạc chịu ảnh hưởng Pháp, Cổ nhạc là một dòng nhạc chịu ảnh hưởng nhạc Ngũ Am, đặc biệt từ khi ông Sáu Lầu sáng tác một bản nhạc, bản nhạc đó đã trở thành một nguồn nhạc mới nhưng người ta không gọi là nhạc mới mà gọi là Cổ nhạc tại vì ảnh hưởng từ Ngũ âm.

Thì như vậy, tân và cổ là một hình thức khái niệm rất tương đối. 

2. Thứ hai, qui ước về phức hợp

Sự phước hợp như, gia đình, giáo hội, Tăng già, là sự kết cầu của nhiều đơn vị tạo thành. Một gia đình có nhiều người hợp lại thành một gia đình, giáo hội là một cơ cấu có nhiều thành viên của một tôn giáo, Tăng già thường có nhiều Tăng Ni hoặc giả là 4 vị tỳ kheo trở lên gọi là Tăng già. Những chữ này cho chúng ta thấy một cơ cấu được tạo nên bởi nhiều thành viên nhiều đơn vị, nhưng tự nó không nói lên được về phẩm về lượng ra sao. Ở bên Mỹ, cộng đồng người Việt có một điểm rất vui là đôi khi đến tham gia một buổi lễ của cộng đồng tổ chức, họ nói ông chủ tịch này, ông hội trưởng kia  nghe chức chủ tịch oai nhưng thật sự trong hội chỉ có 3 người, nhưng cũng có những hội đoàn cũng tên như vậy ở trên thực tế có cả mấy ngàn hội viên, khi đưa ra thì ông nào cũng là chủ tịch ông nào cũng là hội trưởng của một tổ chức một hội đoàn. Ở Mỹ khi gọi là hội đoàn có nghĩa đã được đăng bạ trên luật pháp, và hội đoàn không nhất thiết phải mạnh, phải đông, có hội đoàn chỉ có 3 người và có hội đoàn có cả triệu người, về điểm này chúng ta cũng phải đặc biệt cẩn thận.

3- Thứ ba, qui ước về chúng sanh.

Chúng sanh ở đời, như chúng ta nói người đó thuộc giới thượng lưu, người đó là một mỹ nhân, hay ông hoàng âm nhạc, ông vua thép, vua xe hơi. Thì người ta đặt tên thôi, tính cách tương đối. Ví dụ, người ta nói ông vua xe hơi thì có thể thời điểm nào đó ông rất oanh liệt tạo ra được nhiều mặt hàng về xe cộ nhưng nó không phải là tất cả, nó không có giá trị tuyệt đối.

Hồi xưa người ta có kể một câu chuyện, có một người quá thương vợ và người vợ này chỉ có một mắt, thì người chồng nói rằng "khi tôi yêu vợ tôi rồi thì tôi thấy tất cả những người phụ nữ khác trên thế gian này có dư một con mắt". Ông không thấy người vợ thiếu một con mắt mà thấy những người đàn bà khác dư con mắt, thì nó cũng là một cách suy diễn.

Tại sao chúng tôi nhắc đi nhắc lại chữ tương đối, tại vì tương đối là đặc tính của Tục Đế, tên gọi đó để chỉ cho điều đó nhưng không chắc hẳn nó sẽ mang tính khẳng định tuyệt đối, nên lưu ý về việc đó.

4 - Thứ tư, qui ước về phương hướng.

 Phương hướng là Đông, Nam, Tây, Bắc, Trên, Dưới. Qúi vị thỉnh thoảng nghe TT Tuệ Siêu nói về niệm tâm từ đến người hướng Đông, Nam, Tây, Bắc, Trên, Dưới. Ở trong tiếng Phạn, cũng giống như chúng ta học hồi nhỏ những bài học về thường thức, đôi khi mình chỉ nghĩ đến trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái, trên và dưới thôi. Nhiều khi, một người mang la bàn đi vào trong rừng không định hướng được rõ ban đêm, ngồi không biết hướng nào nhưng, trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái mình qui định được. Thì như vậy, trên địa cầu chúng ta, hướng về bắc cực là phía bắc là Bắc Cực, hướng về phía nam là Nam Cực. Nếu chúng ta đi về hướng Đông hướng mặt trời mọc đi hoài chúng ta sẽ trở về chỗ cũ, hay, hướng Tây hướng mặt trời lặn chúng ta đi hoài cũng về chỗ cũ, tại vì trái đất tròn.

 Như vậy, hồi mình chưa đủ kiến thức về hình dạng tròn của địa cầu có thể mình nghĩ rằng Đông, Nam, Tây, Bắc, là một điều tuyệt đối, thậm chí là Đông, Nam, Tây, Bắc, áp dụng cho cả ngoài trái đất này. Trong Phật Giáo có hai tông phái rất chú trọng về phương vị đó là Tịnh Độ Tông, trong kinh A Di Đà, nói mười muôn triệu thế giới ta bà về hướng Tây. Trong Mật Tông  đặc biệt đề cập đến các phương vị Đông, Nam, Tây, Bắc, như là Đức Tỳ Lô Giá Na ở cương vị nào, Đức Dược Sư ở cương vị nào, Đức Di Đà ở cương vị nào. Nhưng, trong Phật học Phật Giáo Nguyên Thủy phương vị không mang tính tuyệt đối, phương vị mang tánh rất tương đối và nó chỉ có thể áp dụng ở trên trái đất này, khi mình ra ngoài trái đất ngoài Thái Không thì không có Đông, Nam, Tây, Bắc , Trên, Dưới.

Chúng ta nói cách khác, người Âu Châu và người Mỹ thường gọi người Úc là Down Under là Ở Dưới. Khi vẽ bảng đồ thế giới nước Úc luôn luôn nằm ở phía dưới ngang vĩ tuyến của những quốc gia như Nam Phi, như Argentina chẳng hạn. Nhưng nếu chúng ta qua bên Úc, có nhiều người Úc vẽ bản đồ để bán, họ vẽ ngược lại thì nước Úc nằm trên và Mỹ, Canada, Nga nằm tuốt ở dưới. Thật ra, ở quả địa cầu này không có cái nào trên hay dưới, ngay chữ Nam Cực, Bắc Cực cũng tương đối thôi. Ở trong một tinh cầu tròn như vậy thì Đông, Nam, Tây, Bắc, Trên, Dưới hoàn toàn tương đối, hoàn toàn chế định, không có giá trị thật. Chúng ta phải đem Đông, Nam, Tây, Bắc bay ra khỏi địa cầu hay đi vào vũ trụ như phi thuyền Voyager đi qua Thái Dương Hệ có gắng la bàn không từ tính để định hướng theo một đối tượng chỉ hướng nào đó, ví dụ hướng về phía Mặt Trời, Đông, Nam, Tây, Bắc, như chúng ta dùng la bàn để đi trên trái đất này được, thì chúng ta nên hiểu rằng phương hướng là một chế định.

5 - Thứ năm, qui ước về thời gian. 

Thời gian cũng là một ước lệ, một qui ước. Đức Phật Ngài dùng nhiều cách để nói về thời gian, thí dụ, nhỏ nhất là một khảy móng tay, và lâu Đức Phật Ngài dùng chữ đại kiếp (Mahàkappa), một đại kiếp là tuổi thọ của trái đất, hơn thế nữa là a tăng kỳ kiếp, nhưng những điều đó cũng tương đối không có tánh cách tuyệt đối.

Vì vậy, khi chúng ta nói Xuân, Hạ, Thu, Đông, trời đã sang thu rồi, trời đã vào hạ rồi, điều đó chỉ đúng với thời tiết của một nơi nào đó. Ví dụ, như ở thành phố Houston chúng tôi đang ở là đang mùa hè, bởi vì ở Bắc Bán Cầu đang mùa hè, thì ở Nam Bán cầu như Argentina hay Úc bây giờ bắt đầu trở lạnh của mùa đông.

Trên phương diện lịch, người Úc sài lịch VN, mùa hè ở Úc lại rất lạnh, nhưng  mùa đông thì nóng, ngày Christmas và ngày Tết Dương Lịch thì nóng oi bức, bởi vì thời tiết ở Nam Bán Cầu và Bắc Bán Cầu trái ngược nhau. Như vậy, thời gian như chúng ta nói Xuân, Hạ, Thu, Đông hay là phân chia niên lịch chúng ta nói Thu phân, Đông chí, Xuân phân v.v...tất cả đều được qui định bởi chỗ làm lịch ở Bắc Kinh, Trung quốc. Trong quyển Trung Thư lấy theo lịch ở Bắc Kinh áp dụng bên Trung quốc, chúng ta dịch lại thì những hạ chí xuân phân hoàn toàn lệ thuộc vào địa phương đó và nó không áp dụng ở VN.

 Bên Mỹ có quyển sách Farmers' Almanac là lịch cho nhà nông. thì nông lịch này ở trên thực tế cũng không sài hết nước Mỹ được, chúng tôi lấy ví dụ như nước Mỹ một đại lục rất rộng, thì tại nước Mỹ này người nhà nông ở Alaska và nhà nông ở Louisiana hay Texas tuy xử dụng chung nông lịch (Farmers' Almanac) nhưng không giống nhau, tại sao không giống nhau, bởi vì thời gian được phân chia trong nông lịch tùy theo mỗi địa phương. Chúng ta thấy nó có cách rất đối đãi tương đối chứ không phải là giá trị tuyệt đối. 

6 - Thứ sáu, qui ước về không gian.

Sự qui định về không gian cũng tương đối, ví dụ, chúng ta nói, gần, xa, rộng, hẹp. Hồi ở VN, từ Sàigòn đi về Vĩnh Long chúng tôi thấy là một hành trình diệu vợi, bây giờ nghe TT Tuệ Siêu nói có khi đi buổi sáng buổi chiều về chẳng hạn, hay ngày xưa, từ Sàigòn ra Thủ Đức hay Sàigòn ra Biên Hòa cũng là chuyến đi xa, bây giờ gom lại Thủ Đức cũng nằm trong thành phố Sàigòn, thật ra, chỉ là một chuyến đi ngắn vì đường bây giờ rộng hơn. Như vậy ý niệm về, dài, ngắn, rộng, hẹp, không có giá trị tuyệt đối. 

Hồi trước Sư Trưởng lúc còn sanh tiền, có lần Sư Trưởng hỏi chúng tôi là:

- "Sư Trí Tịnh Sư Giác Đẳng có ở gần nhau không?". 

Chúng tôi trả lời: "Dạ gần, bạch Sư Cậu". 

Sư Trưởng nói: "Gần là gần bao nhiêu?",

- "Dạ từ đây qua bên đó bay hai tiếng đồng hồ thôi". 

Sư Trưởng nói: "Bay hai tiếng đồng hồ sao nói gần được". 

Tại vì ở Mỹ có nhiều khi chúng tôi phải bay 5 tiếng, thí dụ từ Houston bay sang California 3, 4 tiếng, từ Houston bay tới New York cũng 3, 4 tiếng. Nếu bay từ Houston tới Tampa mất 2 tiếng thì gần hơn. Do vậy, cái gần cái xa chỉ là nói một cách rất tương đối.

7. Thứ bảy, qui ước về biểu tượng.

Biểu tượng là cái gì đó đôi lúc có giá trị gần như tuyệt đối trong ngôn ngữ. 

Hôm qua chúng tôi thấy một chai tương ớt, nhãn hiệu trên chai tương ớt đó họ in hình Đức Phật có hào quang đỏ rực, ý họ muốn chỉ là cay. Thật ra trong thời đại thương mại người ta có nhiều sự lạm dụng, nhưng mà rồi chúng tôi cũng tự nghĩ rằng mỗi người ở đời đều có quan niệm riêng, là Phật tử mình không hoan hỉ khi thấy hình Phật in trên một cái nhãn như vậy, nhưng, khi mình đến một nền văn hóa khác, một xứ sở khác, người ta có nhiều cách nghĩ khác nhau. Ngay cả ở Á Châu ngày xưa họ in hình Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, hình Phật ngoài bao nhang. Hay là, sau này có hiệu gạo hiệu Ông Địa gọi là hiệu ông Phật mập là fat Buddha trên nhãn hiệu in ngoài bao gạo như vậy. 

Thì bây giờ, khi chúng ta nói đến biểu tượng, nó cũng là một giá trị tương đối. Ở đây chúng tôi có dẫn thí dụ, một pho tượng người Mễ làm trong tư thế ngồi kiết già và mái tóc như vậy, mình nói đó là tượng Phật, nhưng người khác nói không phải là Phật. Là Phật hay không phải là Phật do chúng ta nói thôi. 

Có một lần chúng tôi sang Miến Điện đến thăm một nơi tạc 28 vị Chánh Biến Tri, họ có tạc một vị Phật trong quá khứ mặc y trùm cả hai vai và vai bên phải hở một chút, thì cũng là vị Phật, có người Phật tử nói rằng mấy người Miến Điện này hiểu sai rồi, tượng này là tượng A Di Đà chứ không phải là tượng Phật Anomadassi. Thì cách mặc y, tên gọi, cũng chỉ là một giả định, cũng không có ai thấy Đức Phật A Di Đà mặc y như thế nào, bây giờ có người tạo tượng Phật mặc y như vậy và gọi là Phật Anomadassi, thì cả tên gọi cách gọi chỉ là tương đối. 

Giống như hồi nhỏ chúng tôi thấy ở trên những sách giáo khoa vẽ hình Đức Nguyễn Huệ, Đức Trần Hưng Đạo, tuổi thơ chúng tôi nghĩ đó là hình của Đức Nguyễn Huệ, của Đức Trần Hưng Đạo thật, nhưng lớn lên khôn ra mình biết rằng những nhà họa sĩ minh họa theo hình ảnh nào đó và họ đặt đây là Lê Lợi, đây là Hưng Đạo Vương, đây là Vua Quang Trung, thì minh hoạ cho có vậy thôi chứ thật ra là biểu tượng. 

Như những lá cờ Phật Giáo, người Thái Lan lá cờ Phật Giáo nền vàng bánh xe pháp màu đỏ, cờ Phật Giáo thế giới bây giờ ở nhiều quốc gia là cờ ngũ sắc, xanh, vàng, đỏ, trắng và vệt thứ sáu là do 5 màu nhập lại. 

Thì tất cả đều là biểu tượng và trong biểu tượng người ta có nhiều cách để xử dụng biểu tượng và biểu tượng đó cũng là một cách rất tương đối.

Thì như vậy, khi chúng ta nói về phương diện hàm nghĩa hay diễn nghĩa thì  cũng giống như định danh nó là, một thi thiết, một cách ước lệ, một qui ước giữa con người, không có không được. Ví dụ, mình nói đại dương hay Ngũ Đại Hồ (Great Lakes là năm hồ lớn nằm trên biên giới Canada–Hoa Kỳ), qúi vị nào đã đến Ngũ Đại Hồ thì biết Ngũ Đại Hồ rất lớn. Rồi mình đến Vân Nam thì có hồ Nhĩ Hải, với người Trung Hoa những hồ nước to đều gọi là hải vì hải là biển, nhưng gọi tên hồ Nhĩ Hải nghe tưởng chừng rộng lớn như biển, nhưng thật ra nó nhỏ bé chỉ bằng một phần 20 so với Ngũ Đại Hồ. Ngũ Đại Hồ gọi là hồ nhưng thật sự mênh mông rộng lớn, một nhóm hồ nước ngọt lớn nhất trên thế giới. Thì mặc dầu mình nói là hồ thì luôn luôn nhỏ hơn biển nhưng trong trường hợp Nhĩ Hải và Ngũ Đại Hồ thì Nhĩ Hải nhỏ bé so với Ngũ Đại Hồ. 

Trong tính cách tương đối bất định của ngôn ngữ của từ vựng bắt buộc chúng ta phải đặt lại những vấn đề khi mình học Phật, chúng ta cũng phải cởi mở. Đức Phật dạy chúng ta chớ có đi quá xa ngôn ngữ địa phương, nói cách khác là đừng quá cố chấp. Cũng thời trái mận, miền Nam gọi trái mận, miền Bắc gọi trái roi, hay là miền Nam gọi củ đậu, miền bắc gọi củ sắn, thì mình đến đâu gọi theo đó, đừng cố chấp là phải thế này không phải là thế kia, tại vì mình nói khoai mì phải là thế này củ sắn là thế kia, đó là câu nệ lấy ý nghĩa vùng này để áp dụng cho tất cả, chúng ta phải vượt qua khỏi những định đặt về ngôn ngữ để chúng ta vượt lên trên và hiểu được sự thật

Cách xử dụng Tục Đế xem ra còn khó hơn là khi chúng ta nói về Chân Đế, bài học về Chân Đế thì nghe hơi lạ một chút nhưng đó là những khái niệm  tương đối không có nhiều tính tương đối, nó không có thay đổi về thời gian về văn hoá như là Tục Đế. Tục Đế thì phải nói rằng đó là ngôn ngữ loài người.

 Chúng ta biết tiếng Phạn có Nam Phạn và Bắc Phạn, nghe tưởng đâu Bắc Phạn là do người miền Bắc nói, Nam Phạn là do người miền Nam nói, thật ra không phải như vậy. Tiếng saṃskṛtā hay là tiếng Sanskrit là một cổ ngữ của Ấn Độ còn gọi là bắc Phạn. Còn Nam Phạn là tiếng Pali một giòng ngôn ngữ của Ấn rất xa xưa được biết là tiếng Phạn Pali thời Đức Phật dùng trong châu thổ sông Hằng. Rồi hơn 200 năm sau thì tiếng Prakrit cũng là tiếng Pali nhưng được Vua A Dục lưu dùng. Bây giờ hiện tại tiếng Pāli Nam Phạn vẫn tồn tại ở các nước có truyền thống Theravada ở Đông Nam Á. 

Chúng ta trở lại với bài học về Tục Đế. Tục Đế là một phương tiện của truyền thông, phương tiện chuyển tải ý nghĩa, ngay cả một v giác ngộ có Tứ Tuệ Phân Tích là có khả năng thiện xảo về ngôn ngữ cũng là một trong những thù thắng của một vị Alahán đắc Tứ Tuệ đạt thông, trí tuệ phân tích. Như chúng ta nói có, Pháp vô ngại giải, Nghĩa vô ngại giải, Từ vô ngại giải, Biện vô ngại giải.

 Sự truyền thông rất quan trọng, trong lớp học của chúng ta luôn luôn phải dùng kinh văn, dùng lời thuyết giảng của Chư Tăng. Tuy nhiên, tất cả những xử dụng ngôn ngữ đều phải rất cẩn trọng, đôi khi một chữ nói ở trong ngữ cảnh như vậy là đúng nhưng đem qua chỗ khác thì sai và, mình phải nói đúng thời đúng chỗ. 

Mình nói kinh điển thì có giá trị nhưng, trong lúc người ta mi đến làm đám cưới mình tụng kinh cầu siêu thì nó cũng trật. Tại sao bài kinh cũng Phật nói lúc này có giá trị lúc kia nói không có giá trị, tại vì  bài kinh đó đã được qui định là kinh cầu siêu rồi thì trong trường hợp người ta cầu phước mình tụng thì sai, mặc dầu trên thực tế hoàn toàn không hẳn là sai, thí dụ bài kinh nói là:

Pháp hành vốn vô thường
Sanh diệt là tự tánh
Có sanh hẳn phải diệt
Tịch tịnh là an lạc

 Câu Phật ngôn đó không phải là chỉ có giá trị đối với người chết mà câu Phật ngôn với người sống người chết đều có giá trị. Nhưng một khi đã qui định đó là kinh cầu siêu mà chúng ta tụng trong cầu an thì có vấn đề. Thành ra trong mặt qui ước qui định thì phải cẩn thận. 

Một ví dụ về việc bắt tay, người Đông Phương chúng ta có cách chắp tay rất đẹp nhưng ảnh hưởng văn hóa Tây Phương gặp nhau thì "tay bắt mặt mừng" đó là một thành ngữ, nhưng sau này vì đại dịch nên Tổng Thống Donal Trump nói rằng "bắt tay là cách chào không tốt, tại vì nhiều khi tay mình sạch hay không sạch rồi truyền bịnh cho người khác", có lời khuyên không nên bắt tay, nên đưa tay chào hoặc chắp tay. Người Tây Tạng họ có cách chào đặc biệt là cụng đầu nhau, người VN mà lấy trán cụng nhau là đối đầu nhau. Nhiều lúc cũng phải chấp nhận tại vì văn hoá là văn hóa, ở trong văn hóa ở trong lãnh vựng ngôn ngữ trong cách biểu đạt thì có trăm muôn ngàn thứ. 

Nói cách khác, chúng ta nên có thái độ cởi mở không nên quá cố chấp về phương diện định đặt tên gọi là định danh, hay cách diễn tả ý nghĩa là diễn nghĩa, thay vào đó, chúng ta lắng nghe cho kỹ, và hiểu những gì được nói.

Và nên biết một điều rằng, một sự khác biệt lớn giữa Chư Phật Toàn Giác và Chư Phật Độc Giác. Chư Phật Toàn Giác các Ngài có khả năng rất ưu việt ở trong việc xử dụng ngôn ngữ, phương tiện truyền thông để nói lên những gì Ngài giác ngộ. Nhưng Chư Phật Độc Giác không có khả năng đó. Chư Phật Toàn Giác có thể tuyên lưu giáo pháp và Chư Phật Toàn Giác có thể để cho chúng ta một gia tài đồ sộ ./.

No comments:

Post a Comment